TÌNH YÊU SẼ TRỞ LẠI THEO MỘT CÁCH KHÁC !
Khi đã 40 tuổi, nhà văn Franz Kafka (1883 – 1924) vẫn chưa kết hôn hay con cái gì, ông đang tản bộ trong công viên ở Berlin thì thấy một bé gái đang khóc vì lỡ đánh mất con búp bê yêu dấu. Kafka cùng cô bé tìm con búp bê nhưng không thấy đâu cả. Kafka đành hẹn cô bé gặp nhau ở chỗ cũ vào ngày mai để tìm kiếm thêm.Ngày hôm sau, tìm mãi mà chẳng được, Kafka nghĩ ra cách đưa cô bé một lá thư « được viết » bởi con búp bê với nội dung « Xin chị đừng đau buồn, em đang chu du đi khắp thế giới chị ạ. Em sẽ viết thư gửi chị kể về hành trình phiêu lưu của em nhé. »Vậy là những câu chuyện phiêu lưu được kể qua thư cứ tiếp nối nhau mãi, cho đến khi Kafka sắp qua đời.Trong tất cả những lần gặp gỡ, Kafka đều lấy ra một lá thư mới, đọc cho cô bé nghe về những chuyến phiêu lưu kì thú của con búp bê và khiến cô bé thấy rất vui vẻ.Cuối cùng, khi bệnh lao phổi trở nặng, Kafka mua tặng cô bé một con búp bê mới và nói rằng nó đã trở về nhà sau hành trình quanh thế giới. »Sao nó chẳng giống con búp bê của cháu tí nào cả, » cô bé thắc mắc.Sau lưng con búp bê được đính kèm một lá thư, trong đó viết: « Những chuyến phiêu lưu đã thay đổi em chị ạ. » Cô bé liền vui sướng ôm chầm lấy con búp bê và hạnh phúc trở về nhà.Một năm sau, Kafka qua đời.Nhiều năm sau, cô gái nhỏ giờ đã lớn, trong lúc dọn dẹp đống đồ chơi, cô tìm thấy một bức thư nhỏ xíu ký tên Kafka ở bên trong con búp bê. Trong đó viết: »Những thứ cháu yêu quý có thể sẽ mất đi, nhưng sau cùng thì, tình yêu sẽ trở lại với cháu theo một cách khác. »
ST.
Étiquette : ghi chép
Những mảnh ghép
Đó là một cặp tỏ ra bình thường như bao cặp khác. Ông chạc 70, bà khỏang hơn 50. Ông người tầm thước, tóc hoa tiêu, vẫn lưu dáng dấp quí tộc cổ điển Anh. Ông từng sống và kinh doanh ở Anh mấy chục năm. Bà béo tròn phốp pháp, vẻ mặt và nụ cười hồn hậu, đôi lúc hơi pha nét trẻ con .
Cả hai đều từng đổ vỡ trước khi đến với nhau. Họ không có con. Và cũng không có chó. Niềm vui duy nhất có lẽ là sự ấm lòng khi nhìn thấy bóng nhau mỗi ngày. Tuy nhiên, cuộc sống thì không đơn giản …
Đôi lúc ông sang ngồi uống trà và buồn buồn thông báo hôm nay vừa cãi nhau với bà. Tôi bảo mọi việc rồi sẽ ổn thôi, ông bảo: thế à ?! Có hôm bà chạy sang hớt hải kể một mạch chuyện xích mích với ông. Ông kể thì thường đơn giản một câu thông báo cụ thể và không thể ngắn hơn: tôi cãi nhau với bà ấy.
Bà kể thường rối rắm chuyện nọ sang chuyện kia khiến người nghe có cảm giác vấn đề chính không phải là cuộc cãi cọ với ông sáng nay mà do những tích tụ từ mấy tỉ năm trứoc. Chỉ có một lần duy nhất bà kể rành mạch nhưng với giọng trầm buồn trong nước mắt rằng ông ký di chúc ở văn phòng lục sự, quyết định để lại 70% tài sản cho Sans Frontieres, là tổ chức các bác sĩ không biên giới, chuyên làm từ thiện, cứu giúp các bệnh nhân nghèo. Bà bảo bà thấy bị tổn thương vì sau bao năm sống với ông, bà cảm giác bị coi như một vật phụ. Bà nói Sans Frontieres đã nhiều tiền rồi, cả thế giới gửi vào đấy, trong khi bà tuổi già chỉ trông vào chút trợ cấp. Nếu ông không còn nữa là bà chỉ thui thủi một mình chứ tuổi này rồi còn tìm được ai nữa, đã thế bà còn béo ú , nên bà cũng cần chút an tòan về tài chính phòng khi ốm đau. Nhưng ông lại có vẻ không nghĩ vậy , làm bà thấy đau lòng. Bà nói bà sẽ chia tay, để ông tự do hơn trong việc quyết định … Vì không kết hôn nên bà cũng không có quyền gì nhiều. Bà bảo vấn đề không phải tiền đâu, nhưng cách ông nghĩ vậy làm bà tổn thương… Bà không muốn buồn khổ nữa. Giờ bà chỉ muốn sống yên thân…
Mấy hôm sau mỗi người đều tới uống trà, nhưng đi một mình. Họ tránh mặt nhau. Bà rời đi mới thấy ông tới. Bà vẫn nói chuyện vu vơ. Ông vẫn im lặng trầm tư. Tôi nghĩ : thôi thế là lại xong một cuộc tình . Nhưng không, Chúa có thật đấy nhé ! Nhưng tất nhiên, Chúa cũng chỉ giúp được những người còn duyên nợ với nhau .. 🙂
Ba hôm sau, thấy hai ông bà khóac tay nhau cùng tới uống trà . Vừa uống vừa nhìn vào mắt nhau cứ như thần Cupid ngủ mê ú ớ bỗng giương tên bắn cái bụp. Tôi cũng mừng thầm cho ông bà. Có lẽ như thế tốt hơn là mỗi người một nhà, tối tối ôm cái tivi thủ thỉ .
Một tháng sau, bà lại chạy sang mách hôm qua ông đi uống rượu lúc 3g sáng, xong không nhớ địa chỉ về nhà, khiến police phải dựng bà dậy lúc 4g sáng để đưa ông về…làm bà rất bực vì hôm đó bà đã đang bị cảm cúm… cả ngày lại phải chăm sóc và nhắc ông uống đủ lọai thuốc bác sĩ kê đơn… , bà cũng chả phải 20 gì, cũng cần ngủ đủ giấc mới có sức… Bà kể lúc nào cũng trọn gói, tức là bà kể một hơi tất tật những gì khiến bà búc xúc. Kể xong, nét mặt bà giãn ra, vấn đề 5 phút trước còn to tướng, giờ như đã bay biến.
Ông thì những lúc buồn chỉ tới uống trà một mình, xong lặng lẽ đứng dậy và rời đi . Không nói gì.
Bà ưa nói, bà có nhu cầu thổ lộ tâm tư. Nếu không, có lẽ bà cảm thấy bứt rứt trong người. Ông hòan tòan ngược lại. Có lẽ vì ông ít nói quá nên nhu cầu đối thọai của bà tăng tới mức trở thành độc thọai. Bà nói bất kể có ai nghe không, bất kể điều đó có khiến ai thấy phiền không..
Bà kể đủ thứ chuyện.. Có lần ông mới đi viện về đuợc tuần, bà thao thao giữa quán rằng đêm qua ông nôn ra sao, rồi bà phải thay bỉm cho ông ra sao, khiến mọi người đều đưa mắt nhìn nhau . Bà nói như một cái máy không có chức năng kiểm duyệt phanh phiếc gì, mọi thứ cứ thế trôi ra không cách gì ngăn được. Tới mức nếu không nói , các mạch máu quanh miệng bà có thể ngừng lưu thông. Một lần, bà bị viêm họng khá nặng, gần như mất tiếng, giọng bà khào khào phải căng tai may ra mới hiểu. Tôi đã mừng thầm hôm nay bà sẽ nghỉ ngơi một chút. Nhưng không, họng hiếc không ảnh hưởng tí zì tới việc “vận hành thông tin” của bà. Dù nói đứt quãng không ra hơi, bà vẫn quyết không giảm thời lượng, volume cũng như tốc độ của các câu chuyện mà bà cho là hấp dẫn 🙂 khiến tôi dù chỉ căng mỗi tai để nghe mà lại có cảm giác đau cả họng luôn 🙂
Những năm trước, lúc còn khỏe, mỗi khi thấy bà nói chuyện linh tinh, ông thường gắt: bà thôi đi ! Có hôm lời qua tiếng lại hai nguời to tiếng ngay trước mặt mọi người. Rồi ông bỏ đi, bà ngồi đó lẩm bẩm lầm bầm …Xong đứng dậy bảo: thôi tôi về xem ông ấy thế nào .
Nhưng từ hồi đi viện về, thấy ông lặng lẽ hơn, có vẻ mệt mỏi hơn. Những lúc không hài lòng với những câu chuyện quá đà của bà, ông thường quay sang nhìn bà chằm chằm, không nói một câu nào. Những lúc ấy, đôi mắt ông phủ một gam màu u uất như không có lọai thuốc tẩy nào xóa nổi. Lắm khi cái nhìn của ông nặng tới mức như sắp có chiến tranh. Bà thì những lúc đó chỉ liếc sang nhìn ông một giây rồi tiếp tục tươi cười quay lại câu chuyện của mình như chả có gì xảy ra . Bà quen với chuyện đó . Ông chỉ nhìn vậy thôi, và sẽ chả có gì xảy ra. Và ông cũng quen với chuyện đó. Trời còn không thay đổi được bà, ông thì là cái thá gì ! Nói xong 5 phút chắc bà cũng quên đã nói gì .
Tôi chỉ lặng lẽ quan sát họ. Không dám nói một lời . Mà cũng chả biết nói gì. Bao năm sống đất người, tôi học được cách thận trọng. Với văn hóa ở đây, bất kỳ một lời khuyên nào cũng có thể hoặc bị cho là can thiệp vào đời tư họ. Hoặc chỉ làm mọi việc tệ thêm.
Cứ thế, họ song hành cùng nhau. Vừa song song bên nhau, vừa yêu thương và hành hạ nhau. Bà hành ông với những câu chuyện không đầu cuối bất tận. Ông hành bà với sự im lặng có nguy cơ cũng bất tận.
Có lẽ ông không biết phải nói gì nữa. Cũng có lẽ ông đã nhận ra bà không ý thức được những gì bà nói, việc đối thọai với vô minh hay vô thức quả là rất nhọc … Hoặc ông nghĩ có lẽ im lặng tốt hơn là làm mọi việc rối thêm. Nhưng với bà nó lại là một sự nặng nề khó chịu. Có thể bà xem đó như một sự coi thường, sự khinh miệt, và bà ngấm ngầm chống đối theo cách của bà . Ông thì đã vào giai đọan chấp nhận, cũng có thể ông thấy mệt mỏi quá ..
Cuối tuần rồi, họ lại cùng nhau tới uống trà , bà vẫn tiếp tục kể các lọai chuyện, kiên quyết bám chắc công thức “nói dài, nói dai, nói dại” … Thi thỏang bà cũng dừng lại, không quên hỏi ông ăn uống có ngon không, lấy thêm cái này cái nọ dùm ông. Một lúc, ông đứng dậy và nói ông muốn về nhà. Bà làu bàu: tôi còn chưa uống xong mà. Ông chả có kiên nhẫn gì cả. Nhưng lúc đứng dậy ra lấy áo khóac, bà vẫn giúp ông mặc áo và cài từng chiếc cúc cẩn thận. Vì ông không gập đựoc lưng xuống. Rồi bà phẩy cái lá dính trên áo ông, đội mũ giúp ông, chỉnh mũ cho ngay ngắn. Ông nhìn xuống bà với ánh mắt trìu mến, khác hẳn mấy phút trước.
Rồi họ dắt tay nhau rời đi. Tôi nhìn hút theo bóng họ. Bóng ông nặng chịch và chậm chạp từng bước. Bóng bà lật đật bươn bả bước theo. Cứ thế họ dìu nhau đi trong nhập nhọang của một buổi chiều muộn, dưới mưa tuyết lất phất lạnh lẽo trên con phố nhỏ . Họ dìu nhau như thế đã 15 năm…
Tôi chợt giật mình nhớ tới một câu chuyện nghe lãng nhách mà cô bạn mới kể mấy hôm trước. Rằng có hai anh chị kia đẹp đôi lắm, yêu nhau thắm thiết lắm, lãng mạn lắm. Được mấy tháng, họ chia tay và mỗi người đi tiếp con đừong của họ với một người khác.
La La Land là một phim thể lọai nhạc kịch lãng mạn pha bi hài. Phim vừa ẵm hàng chục giải thưởng danh giá tại các liên hoan phim Venice, Toronto, Quả cầu vàng, Bafta.. và hơn chục đề cử Oscar đang chờ kết quả trong mươi hôm nữa. Ờ…
(15/3/2017)
Cuối tuần ở Limburg
Một ngày tháng 5 đẹp trời , cả nhà lại xếp vali kéo nhau lên đuờng tới Limburg. Mùa xuân năm nào chúng tôi cũng hẹn nhóm bạn ở đây. 12 ng lớn và 6 trẻ con. Tất cả thuê 2 căn hộ liền kề trong khuôn viên một trang trại rất rộng. Có 8 phòng ngủ, 2 nhà tắm, 4 wc, 2 bếp đầy đủ trang thiết bị, 2 phòng ăn, 2 living có TV. Phía trước có sân chơi cho trẻ con đủ cả bãi cát, trampoline, xích đu, cầu trượt, xe đạp… Bên trái là một cái hồ nhỏ có thả vịt . Chiều tối còn có hẳn tiếng ếch kêu râm ran. Khung cảnh làng quê rất thanh bình.
Chương trình năm nào cũng là 2 ngày đi dã ngọai, sáng thứ bảy ăn sáng xong sẽ bắt đầu hành trình đi bộ trong thiên nhiên. Mọi người đều chuẩn bị nước uống, bánh mì kẹp và trái cây mang theo để ăn trưa. Chiều khoảng 5-6 g về mọi người cùng nhau nấu nướng và dùng bữa tối vui vẻ. Thực đơn thì đã thống nhất từ trước. Sáng chủ nhật đi thêm một chặng ngắn chừng 5km, tới 12g30 thì tập kết ăn uống tại một nhà hàng trong vùng trước khi chia tay. 2 bữa điểm tâm mọi người phân chia nhau, người mang bánh mì, ngũ cốc, người mang bơ sữa mứt, người mang trà, cà phê…
Limburg là một vùng rất xanh . Những nơi tôi đi qua đều phủ một màu xanh mướt của cây cỏ. Chúng tôi lái xe tới một bãi đậu và bắt đầu cuộc dã ngọai. Trong đòan có « thổ dân » Limburg rất rành đuờng tình nguyện làm hướng dẫn.. Cứ đi khỏang 3-4km chúng tôi dừng chân nghỉ một chút, uống nước, ăn vặt (ai hút thuốc thì hút) rồi lại đi tiếp.
Chúng tôi đi miên man qua những con đường nhỏ rợp màu xanh, hai bên là những ruộng ngô, ruộng nho, vườn táo, vườn lê, những ngôi nhà nhỏ xinh xắn, những trang trại gia đình nuôi gà nuôi vịt, trồng rau.. Những thảm cỏ xanh bát ngát thi thỏang nhô lên tháp chuông một nhà thờ hay nhà nguyện nào đó. Limburg là vùng nửa Công giáo nửa Tin lành. Đời sống vẫn nhiều dáng dấp làng xã. Không hiểu sao tôi chợt nhớ tới một câu thơ của Đồng Đức Bốn: “Đất nâu tưởng đã cũ càng . Tiếng chim trong bụi tre làng cứ non..”
Trên đường cũng rất nhiều nhóm đi dã ngọai. Chúng tôi chào nhau khi đi ngang qua. Đây là khu vực giáp biên giới với Hà Lan. Chúng tôi đi qua một cột mốc biên giới. Chỉ là một cái cọc đơn giản trên đó có đánh dấu : đi sang trái là thuộc Bỉ, đi sang phải là thuộc địa phận Hà Lan. Tôi bỗng hình dung ở cái làng nhỏ nơi địa giới mong manh này, bên Bỉ có thể với tay sang Hà Lan, có hai anh chị kia để ý nhau kiểu « cửa sổ hai nhà ở cuối phố, chả hiểu sao không khép bao giờ ». Ở đây, ngừoi này có thể nhờ người kia “mày sang Hà Lan mua cho tao mấy cái kem”. Từ Hà Lan sang Bỉ cũng chả khác gì ra quán nước đầu ngõ. Mà nói chung, đã iu rồi thì cột biên giới có to hơn hay xa nữa thì cũng nhằm nhò zì 😅

Thi thỏang, một vài nhóm đi bộ trải khăn xuống thảm cỏ và ăn trưa dưới bóng cây . Quang cảnh trông cũng hao hao nhiều bức tranh của Manet, nhưng tất nhiên ở đây không có khỏa thân 😎
Có tiếng gà gáy trưa. Tôi vụt nhớ về nhiều năm trước …về những làng quê Việt nam tôi từng đi qua. Cũng một màu xanh mướt. Cũng có tiếng gà gáy, cũng có cây cổ thụ … Và cả mùi ổi mùi nhài thơm ngát sau những lũy tre xinh đẹp… Người nông dân thì ở đâu cũng vất vả, nhưng là những cái vất vả cực kỳ khác nhau…
Limburg vẫn còn chừng hơn trăm các trang trại lớn nhỏ. Nhiều trang trại ở đây vẫn giữ nguyên mô hình như cả mấy trăm năm trước. Đi ngang một trang trại nhỏ, thấy có một chiếc cầu thang cũ nối với gác xép, tôi tò mò xin trèo lên xem. Phía trên là gác gỗ chất đầy rơm rạ và đồ cũ . Thiếu ánh sáng và thừa mạng nhện. Chợt nhớ đến một cảnh trong phim Đồi gió hú , tôi vội vàng leo xuống 😀
cầu thang cổ nối lên gác xép một trang trại nhỏ
Bà chủ trại này là một phụ nữ đậm người, đi đứng khùynh khòang, tính cách khá mạnh mẽ. Mà cũng phải mạnh mẽ thôi khi bà một mình quản lý tất tật từ A tới Z. Bạn thì bà không thiếu nhưng người yêu thì bà không có, mà bà chắc cũng chả thiết. Bà là bà chả thay đổi vì đứa nào sất. Bà cứ thế thôi, cứ nói choang choang và cứ phảng phất mùi bò đấy . Không yêu iếc zì cũng ổn mà, thôi cứ để bà yên ! Làm phiền bà là bà nhốt lên gác xép 😉
trong sân một trang trại nhỏ với kiểu cửa từ thời Trung cổ
một ngôi nhà cổ ở Limburg
Limburg là một vùng nhiều dấu ấn lịch sử. Chúng tôi đi qua một cây cầu . Đây là cầu Vroenhoven nổi tiếng, bắc ngang con sông nối từ Liège tới cảng Antwerp. Chính tại nơi đây, chiến tranh thế giới thứ hai đã bắt đầu ở Bỉ. Cây cầu nối với hai boong-ke bỏ hoang từ sau chiến tranh. 7 mươi 7 năm trước, mọi thứ ở đây xáo trộn với những xe tăng súng ống, bom đạn … Còn bây giờ nó thanh bình biết bao với dòng sông êm ả trôi giữa hai hàng cây xanh rì . Vâng, 77 năm trứoc, quân đội Bỉ đã đầu hàng quân Đức trên chiếc cầu này sau nhiều ngày cầm cự.
Máu đã chảy xuống đây. Thịt đã rơi xuống đây. Dòng sông đã chứng kiến nhiều sự kiện xuyên thời gian. Nó thấy hết, và nó lặng lẽ trôi. Trôi ra biển cả bao la. 77 năm trước, dòng sông có khác không ?

cầu Vroenhoven 77 năm trước…

và bây giờ
Cây cầu ngày xưa thì khác. Giờ nó được xây lại hiện đại hơn, vững chắc hơn. Trên thành cầu, một hàng chữ bằng 4 thứ tiếng vừa nhắc nhở nỗi đau chiến tranh, vừa phòng ngừa những người muốn tự tử . Bên dưới cầu là khu bảo tàng, nơi lưu giữ những di tích của một vùng từng là chiến sự nóng , cũng là nơi tưởng niệm 1740 người đã ngã xuống ..

bên trong bảo tàng dưới chân cầu Vroenhoven
Cách đó không xa là đài tưởng niệm các nạn nhân chiến tranh và Ngọn lửa mang tên Hòa bình thế giới.

Ngọn lửa Hòa bình thế giới
Chiều tối chúng tôi trở về trang trại. Trong nhóm có một đầu bếp gốc Limburg nên hàng năm anh thường nấu cho cả nhóm ăn. Trong lúc chờ bữa tối, ai thích đi thăm chuồng trại hoặc dạo quanh hồ thì đi. Vài người vác ghế ra vườn ngồi hóng gió và buôn chuyện. Thì chuyện xã hội, chính trị, và tất nhiên cả tình êu 😉 Trẻ con chơi xích đu, nghịch cát hoặc nhảy trampoline. Một lúc thì các mẹ gọi vào tắm rửa sạch sẽ để chuẩn bị ăn bữa tối. Các bà khác rảnh rang thì bắt đầu chia nhau dọn bàn ăn khi mùi thức ăn thơm nức tỏa khắp nơi. Ăn tối xong, mọi nguời pha trà, cà phê và mang bánh ngọt ra, ngồi buôn tiếp cho tới tận gần 11h. Trẻ con thì xem phim tới 9h30-10h rồi cũng đi ngủ .

hồ nước cạnh trang trại
Ngủ ở trang trại khá đặc biệt . Nếu đóng cửa sổ thì hơi bí, nhưng nếu mở cửa sổ thì 3,4 g sáng gà sẽ gáy , bò bê sẽ ầm ì đòi ăn.. . Chó sẽ sủa inh ỏi .. . Tôi tỉnh một lúc rồi lại từ từ ngủ tiếp khi những âm thanh của trang trại lắng xuống , cho tới 7-8 giờ khi nắng sớm vờn trên rèm cửa và tiếng trẻ con bắt đầu chơi đùa dưới sân . Thức dậy ở trang trại là một trải nghiệm khá thú vị . Không hẳn vì có tiếng bò bê hay gà gáy mà nơi đô thị thiếu vắng, mà nó có tiếng chim hót líu lo trong không khí ban mai hơi se lạnh phảng phất mùi chuồng trại. Và khi ta nhìn qua những chiếc cửa sổ bé xíu kiểu thời Trung cổ, cảm giác thời gian thật diệu kỳ…

Ở trang trại này chỉ nuôi bò thịt, không nuôi bò sữa . Bà chủ trại nói giờ luật mới, không cho phép các trang trại làm nhiều thứ như trước, mà họ đưa vào chuyên nghiệp hóa. Trang trại nào đăng ký nuôi bò thịt thì chỉ được nuôi bò thịt thôi, không được nuôi bò sữa, không được nuôi các lọai gia súc khác như heo, cừu, gà vịt, và cũng không được trồng cây trồng rau màu…
Bởi vậy, thế hệ con cái bà không muốn tiếp quản công việc của bố mẹ nữa. Họ học các ngành khác như bác sĩ, ngân hàng, luật sư… Còn trang trại cũng phát triển dần sang mô hình làm nhà nghỉ cho thuê, phòng một mai không nuôi bò bê được nữa thì cũng không lo đói.
Vùng này vẫn giữ phong cách làng xã. Gần như cả làng biết nhau. Đời sống ở đây khá từ tốn.
Cuối ngày, các em nhỏ được ngồi trên xe công nông do chính chủ trại lái đi một vòng quanh trang trại. Với chuyến dã ngọai cuối tuần ở Limburg, các em được hưởng không khí làng quê, gần gũi hơn với thiên nhiên, có những trải ngiệm đa dạng.

Limburg – một vùng đất đầy sức sống, vừa ấp ủ truyền thống, vừa hé mở hợp lý với hiện đại, hướng tới tương lai mà không mất đi nét duyên quê dung dị . Tình cờ, tôi đọc được mẩu tin tại Hội Nghị tòan cầu về du lịch 2016, Limburg được chọn trao giải thưởng Du lịch cho tuơng lai – giải quốc tế cao nhất về du lịch, cho một vùng đất những năm trước đó còn bị đánh giá là cằn cỗi. Nhưng chính với cái vẻ quê quê được khai thác và phát triển đúng hướng ấy, Limburg đã thành công trong lĩnh vực du lịch.
Chiều chủ nhật, thu xếp đồ trở về nhà, đứng trên con đường nhỏ nhìn ra mặt hồ nơi những con vịt xinh xinh đang thong thả bơi, tôi chợt nhớ tới một câu vè hồi bé bọn trẻ con chúng tôi hay hát :
Nhà Tí nhỏ bé,
Ở mé bờ đê
Có bò có bê
Có hồ thả cá.
Gà cồ to quá,
Gà ri bé tị,
Có na có thị
Có cả bí ngô .
(31/5/2017)
Diogenes – nhà triết học cá tính nhất Hy Lạp
Alexandre Đại đế là nhân vật nổi tiếng nhất thời La Mã cổ đại với các trận chinh phạt mở rộng lãnh thổ tới tận Trung đông, thậm chí cả một phần vùng ngũ hà của Ấn độ, sát nhập hơn 70 thành phố trong đó chiếm Alexandrie năm 331. Diogenes là nhà triết học cá tính nhất Hy Lạp thời đó. Hơn 300 năm trước công nguyên, Diogenes đã tuyên bố mình là công dân thế giới và không muốn bám vào một nơi nào. Có hôm Ngài còn thắp một cái đèn đi vào phố giữa ban ngày « để tìm một con người trung thực »
Theo truyền thuyết, Alexandre Đại đế đã tìm tới thăm Diogenes khi ông đang sưởi nắng. Cảm phục thần thái và khí chất của Diogenes, Alexandre Đại đế có ngỏ lời muốn giúp gì đó cho nhà triết học nổi tiếng này (vì ông hay sống đời lang thang khất thực). Diogenes chỉ nói: Ít nhất ngài có thể dịch sang một bên được không ? Ngày đang đứng che ánh nắng của tôi » . Cảm phục sức mạnh tự tại của Diogenes, Alexandre Đại đế thốt lên: Nếu ta không phải Alexandre Đại đế, ta ước được là Diogenes ! Nhiều nguồn tin cho rằng cả hai nhân vật nổi tiếng này chết cùng ngày. Có điều Diogenes lúc đó khoảng gần 90 tuổi, còn Alexandre lúc đó 33 tuổi, chết do bị sét đánh. Điều trớ trêu là sau khi chết, đế quốc hùng vĩ của ông đều bị các tướng lĩnh chia cắt ra thành các quốc gia nhỏ
Hai trăm năm trước đó, phía bên kia địa cầu, Lão Tử đã nhận biết: Không dám đứng trước thiên hạ thì mới làm chủ được thiên hạ… Người giàu là người biết đủ, người giỏi là người biết dừng đúng lúc. (27/3/2019)
(tranh minh hoạ: cuộc gặp gỡ giữa Diogenes và Alexandre (tranh của Cornelis de Vos, họa sĩ Bỉ, phái Baroque)