Goya, một tầm vóc vĩ đại.

Bắt rễ từ thế kỷ 18 – 19, nghệ thuật của Goya dường như đang biến hoá trước mắt chúng ta.
Các tác phẩm thời kỳ đầu của ông mang phong cách của họa sĩ chế độ xưa (thời trước cách mạng Pháp), trong khi sau năm 1792, chứng kiến những nỗi kinh hoàng và thất vọng, người nghệ sĩ với tài năng riêng cho chúng ta thấy nghệ thuật của ông mang những tầm nhìn tuyệt vời.

Goya sinh năm 1746, trước Mozart 10 năm, trước Beethoven 24 năm. Ông 46 tuổi khi Cách mạng Pháp nổ ra, 57 tuổi vào năm 1800. Do vậy ông là người của thế kỷ 18. Nhưng ông đã sống khá lâu – cho đến tận năm 1828. Các tác phẩm của ông chứa đựng những khía cạnh hoàn toàn mới và có tính dự báo tương lai, đến nỗi nó thậm chí thuộc về thế kỷ của Delacroix, Baudelaire và Manet. Cả ba cũng tỏ lòng thành kính với thiên tài của ông. Việc có gốc rễ cả từ thế kỷ 18 và 19 khiến các tác phẩm của Goya rất đa dạng và phong phú.

Cách mạng và sự đổ vỡ.
Người ta thường cho rằng khúc ngoặt quyết định là vào năm 1792. Khi một căn bệnh rất nặng suýt giết chết Goya, buộc ông phải điều trị dài ngày và khiến ông bị điếc vĩnh viễn. Cơn lốc các sự kiện chính trị cũng góp phần vào sự đổ vỡ này. Cách mạng Pháp gây những hậu quả nghiêm trọng ở Tây Ban Nha. Nhóm Ilustrados, đại diện Tây Ban Nha của phong trào Khai sáng, những người chia sẻ lý tưởng của các triết gia Pháp cùng với Goya, bị săn lùng: các bộ trưởng Floridablanca, Cabarrus, Jovellanos, Ceán Bermúdez, Saavedra, tất cả những người bảo vệ họa sĩ, đều bị tù đày hoặc lưu vong.

Căn bệnh của Goya, vẫn còn là một bí ẩn, cũng có thể được hiểu như dấu hiệu của tình trạng bất ổn giữa hai ngả: ông ủng hộ lý tưởng của phong trào Khai sáng và Cách mạng, nhưng đồng thời ông cũng là Họa sĩ của triều đình (Pintor de Camera), thành viên của Hàn lâm viện, có liên hệ bản chất với hệ thống quân chủ mà ông đã nỗ lực leo lên từng bậc với tham vọng đạt đến đỉnh cao. Sự khác biệt này có thể chịu được ở mức độ nào?

Tuy nhiên, sau một thời gian dài dưỡng bệnh tại nhà người bạn là Sebastiàn Martinez ở Cadix, Goya không còn là một họa sĩ như trước nữa. Năm 1794, ông gửi đến Hàn lâm viện một loạt mười một bức tranh, trong đó ông viết, ông đã để cho “tính ngẫu hứng và phóng tác” được hoàn toàn tự do. Đó là những bức tranh với các cảnh cháy nổ, đắm tàu, nhà tù và trại điên, mang đặc điểm thực tế của những thứ được chứng kiến, chứa  thông điệp ngầm qua những tưởng tượng hãi hùng. 

Họa sĩ triều đình
Sinh ra gần Zaragoza, có cha là một thợ thủ công và mẹ xuất thân từ một gia đình quê nề nếp, Francisco Goya học nghề với một người thầy trong vùng, José Luzán, sau đó thi trượt mấy lần trong các cuộc thi vào Hàn lâm viện San Fernando ở Madrid. Tài năng của Goya không sớm bộc lộ.

Liệu ông có giống với « gã beo béo » mà nhà văn Pierre Michon tưởng tượng (trong Ông chủ và người hầu) ? Gã tỉnh lẻ thô kệch bị lóa mắt bởi bao hình ảnh lộng lẫy trong các cung điện của Madrid cũng như sự hào hoa của xã hội thượng lưu và vẻ kiêu kỳ của các đại tiểu thư không bao giờ với tới ? Lóa mắt và choáng ngợp bởi tham vọng đạt được điều đó, gia nhập với họ và trở thành họa sĩ vĩ đại của thế giới, tiếp cận các đại tiểu thư xinh đẹp …? Mọi người cho rằng với bức chân dung tự họa năm 1771, đầy sinh lực và vững vàng, hé mở phần nào trình tự tiến triển trong sự nghiệp của ông.

Trở về sau một thời gian nghiên cứu ở Ý, ông nhận được những đơn đặt hàng đầu tiên từ các nhà thờ ở Saragosse và giới quý tộc Aragon. Ông cưới Maria Josefa Bayeu, chị gái của anh em nhà Bayeu, những họa sĩ Aragon có tiếng và thân thiết với Anton Raphael Mengs, người khá ảnh hưởng đến sự nghiệp của ông sau này. Nhờ sự bảo trợ của Francisco Bayeu, ông được vào Xưởng sản xuất thảm Hoàng gia, nơi trong suốt mười lăm năm, ông đã vẽ rất nhiều, mang lại thu nhập đều đặn và xác định vị thế của ông.
Với mục đích trang trí cho cung điện của hoàng tộc, những tấm thảm trình bày các chủ đề vui vẻ, những cảnh phổ biến như Lối đi dạo ở Andalusia, nơi có các sự kiện hoành tráng, các trang phục dân tộc … Nhưng thành công phụ thuộc vào sự công nhận của Viện Hàn lâm. Goya được nhận vào đó vào năm 1780; mười lăm năm sau, ông thay thế Francisco Bayeu đảm nhiệm việc quản lý viện. Đồng thời, ông trở thành họa sĩ vẽ chân dung chính của tầng lớp quý tộc Tây Ban Nha, được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các Công tước xứ Osuna và Medinaceli cũng như chủ ngân hàng Cabarrus.

Tự do chói sáng.
Năm 1799, ông được bổ nhiệm làm Họa sĩ đầu tiên của nhà vua. Gia đình Charles IV, bức chân dung tập thể cỡ lớn được vẽ vào năm 1800, đánh dấu đỉnh cao của sự nghiệp chính thức, được sánh ngang với bức Thị nữ Les Menines của Vélasquez (một trong ba người thầy của ông, cùng với Rembrandt và mẹ thiên nhiên, như ông tuyên bố). Ông đã trưởng thành từ những bài học của người thầy đầu, để đạt được một phong cách quyết đoán, táo bạo, quyến rũ, nhưng vững vàng và dễ chịu hơn so với kỹ thuật điêu luyện quý phái của bậc thầy Sevillian. Ông cũng khẳng định tính độc lập trong nghệ thuật của mình qua sự thông tường đáng kinh ngạc khi nhìn vào các người mẫu: những người mẫu này bị méo đi bởi những tật xấu, đến mức trông như những biếm họa.

Không lâu trước đó, vào năm 1798, ông vừa hoàn thành một công trình hoành tráng, những bức bích họa ở Nhà thờ lớn San Antonio de la Florida, nơi ông được sánh ngang với Tiepolo, nhưng bằng một phong cách hiện thực và dân dã  rất riêng. Đó cũng là giai đoạn ông qua lại với nữ công tước xứ Alba, và hình ảnh hai thiếu gia, một người có quần áo và một người khỏa thân, với những cử chỉ rõ ràng khiêu khích trực tiếp người xem, đã ám ảnh Manet.
Trong những năm 1790, Goya đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp và nghệ thuật. Nhưng đó cũng là thập kỷ đau đớn khủng khiếp với ông do bệnh tật gây ra. Kể từ đó, hội họa của ông vừa đạt được sự tự do tuyệt vời vừa bắt đầu hướng tới các chủ đề kịch tính, u ám hay ma mị: những cảnh đấu bò tót, những kẻ giết người, mất trí, kẻ ăn thịt người, ác quỷ và phù thủy …

Nghệ thuật chạm khắc vốn quen thuộc với ông, và ông đã khắc một phần lớn các kiệt tác của Velasquez, rồi sau đó là một loạt các tác phẩm như: Sự bất chợt (Les Caprices), Thảm họa chiến tranh (Les Désastres de la guerre),  Đấu bò (La Tauromachie), Sự khác biệt (Les Disparates, còn gọi là Ngạn ngữ) – tạo thành một kỳ tác trong kiệt tác, một tượng đài khổng lồ của bóng tối hấp dẫn và đáng sợ, có lẽ là phần tuyệt đối nhất của thiên tài Goya.

Bức tranh Thảm họa, nửa thực nửa ảo, ngụ ý về những hành động tàn bạo của quân đội Napoléon từ năm 1808 trong cuộc xâm lược và chiếm đóng Tây Ban Nha. Lần đầu tiên trong nghệ thuật phương Tây, sự tàn bạo và kinh hoàng của hành vi con người được phơi ra dưới ánh sáng trực diện, không một chút sắc thái mang tính anh hùng hay lãng mạn. Hai tấm tranh lớn, La Charge des Mameluks, ngày 2 tháng 5 năm 1808 và Les Fusillades, Vụ nổ súng ngày 3 tháng 5 năm 1808, đều tưởng nhớ những sự kiện bi thảm này. Bức thứ hai đã trở thành một trong những biểu tượng to lớn của hội họa phương Tây và là biểu tượng được thế giới ngưỡng mộ về tính tử đạo của các dân tộc bị áp bức.

Hành trình đến tận cùng của bóng đêm.
Sau khi người Pháp rời khỏi, việc Ferdinand VII trở lại ngai vàng Tây Ban Nha đã kéo theo một làn sóng đàn áp chống lại phe Tự do. Goya, lúc này đã già, bị điếc, rời xa triều đình và Hàn lâm viện, thấm đẫm một chủ nghĩa bi quan cay đắng, nhưng lại khiến nghệ thuật của ông mang một tầm vóc vô cùng lớn lao. Năm 1819, ông chuyển đến một ngôi nhà mới ở ngoại ô Madrid, Quinta del Sordo (Ngôi nhà của người điếc), nơi ông trang trí tường bằng những bức họa u ám: những hình ảnh tuyệt vọng về một nhân loại không thể cứu vãn với sự ngu dốt và mê muội, bạo lực mù quáng và cái ác, được vẽ theo kiểu những biến dạng đáng sợ. Ông mang phong cách của chủ nghĩa biểu hiện một thế kỷ trước khi trào lưu chính hình thành.
Sự phục hồi của chế độ chuyên chế vào năm 1823 khiến ông lo sợ cho tự do của mình. Lấy lý do đi chữa bệnh, ông đến lưu vong ở Bordeaux, và sống bốn năm cuối đời ở đó cùng cô Leocadia Zorilla, người đến với ông sau khi vợ mất. Hơn 80 tuổi, Goya không mất đi chất nghệ thuật của mình, ông vẫn tiếp tục trải nghiệm. Những kiệt tác cuối cùng, như bốn tấm thạch bản chủ đề đấu bò, những bức họa nhỏ trên ngà voi hay bức tranh tuyệt vời mà họa sĩ tiền-ấn-tượng gọi là Cô bán sữa ở Bordeaux .. chứng minh tính sáng tạo nguyên vẹn và sức mạnh của một nghệ thuật vĩ đại lan tỏa. Bởi vì nó quan tâm đến thực tại, bao gồm cả những gì đen tối nhất, theo cách trực diện nhất, và bởi vì nó dò tới những góc hiểm hóc nhất trong tâm hồn con người, nơi ẩn náu những phi lý và điên rồ, nghệ thuật của Goya như soi sáng cho cả thế kỷ tương lai và báo trước những dòng chảy lớn của thời kỳ hiện đại.

(lược dịch từ Connaissances des Arts – số tháng 3/2021)

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

« Thiên thần gẫy cánh » của Picasso

Trên một nền xanh da trời mơ mộng, Picasso vẽ một người đàn ông nằm chổng mông, trông như một thiên thần vừa bị ngã sấp mặt xuống đất. Đôi mắt mở thao láo trên cái đầu đang quay nhìn « phần đuôi » của mình một cách ngu ngơ, kiểu « sao thế nhỉ » 😅.
« Thiên thần » có vẻ khá vất vả vì sự  nặng nề của anh ta, với chân tay thô kệch và những thứ « của nợ »  phơi ra rất siêu hiện thực 😎. Anh ta liệu bay nổi với những thứ vướng víu có sức trì kéo đó không ? Anh ta như đang loay hoay nên trở thành thiên thần hay cứ làm một con thú trần trụi bản năng ?  Một bài trên tạp chí mỹ thuật từng mỉa « con thú hoang » khi nói về nhân vật này của Picasso 😎
Bức tranh có tông dịu nhẹ nhưng lại toát lên sự giằng xé giữa hai thế giới: mộng mơ và đời thực. Một bức tranh hóm hỉnh nhưng sâu sắc. Một bức hiếm hoi và không hề nương tay hơn khi ông vẽ phụ nữ 😉

Picasso vẽ bức này vào giai đoạn cuối, khi ông đã quá trải đời, hiểu về con người, nhất là đàn ông. Giới nghiên cứu mỹ thuật đều biết ông mắc hội chứng sợ phụ nữ (vừa thích nhưng vừa sợ 😜), nên tranh vẽ các bà các cô là ông hay băm ra « cho bõ ghét ». Điều này thể hiện khá rõ qua bức Những cô gái vùng Avignon. Còn mấy bức ổng vẽ các cô bồ thì thôi rồi, luôn với cái nhìn sắc nhọn lột tâm can người mẫu.. Bởi vậy bức « Người đàn ông khỏa thân nằm » (L’homme couche’ nu – 1971) này quả là một bức hiếm hoi ông vẽ mẫu nam. Rất Picasso, rất sắc nhọn và hóm hỉnh nhưng cũng rất nhân văn.

Gauguin: Ảo ảnh sau bài thuyết giảng- bí ẩn và đầy hình tượng.

Như một đàn ngỗng trắng, những chiếc mũ vải của các thôn nữ viền bóng đầy đặn trên nền đỏ rực của quang cảnh. Một thân cây cong queo ngăn cách họ với hai đấu sĩ chân trần. Chiếc áo choàng ôm lấy thân hình mảnh khảnh, đôi cánh gắn sau lưng như tiết lộ họ thuộc hai giáo dân thiểu số. Đối diện, bên trái, một chú bò non đang bước uyển chuyển. Bức tranh có tựa đề Ảo ảnh sau bài thuyết giảng hay Cuộc đấu của Jacob với thiên thần. Gauguin vẽ vào tháng 8-9 năm 1888 trong lần lưu trú thứ hai ở Pont-Aven. Trốn đi, hãy trốn ở đó …

Sinh ở Paris, Paul Gauguin (1848-1903) luôn ước thoát khỏi đó. Ngay từ khi ở Lima với người chú quý tộc, ông đã lưu giữ những ký ức kỳ lạ và tuyệt vời. Rồi với tư cách thuỷ thủ hàng hải, ông đi vòng quanh thế giới. Năm 1886, ông lưu trú lần đầu tại Pont-Aven. Bretagne là một vùng có phong cảnh khắc khổ và nguyên sơ, cuộc sống còn khá rẻ, một vùng đất huyền thoại thu hút các nghệ sĩ. « Tôi yêu Bretagne, » ông viết – tôi tìm thấy ở đó sự hoang sơ, tính nguyên thủy ». Sau thời gian lưu trú tại Martinique năm 1887, nơi bảng màu của ông ngập tràn sắc màu rực rỡ, Gauguin trở lại Pont-Aven vào năm sau đó.


Để tách tôn giáo khỏi thực tế, Gauguin đã vẽ một nền đỏ sậm. Một màu đỏ mộng mị, màu đỏ huyền bí xóa bỏ phối cảnh và đưa chúng ta đến với siêu nhiên.

Ảo ảnh sau buổi thuyết giảng thể hiện phong cách mới của ông. Gặp gỡ ở Bretagne, Émile Bernard đã động viên khi ông đang từ giã những mảnh ghép cuối cùng của phái Ấn tượng. Trong bức Những thôn nữ Breton trên đồng cỏ, có vẻ như có trước bức La Vision không lâu, trong sự kết hợp với Louis Anquetin, ông đã mở đường cho cái sau này được gọi là phong cách tổng hợp và thuyết nhân bản. Thuật tráng men, phổ hình, kính màu, khắc gỗ Nhật Bản là nguồn gốc của bước phát triển này. Từ đây, Gauguin xử lý màu sắc trên các mặt phẳng, phác hình bằng những đường liền mạch xóa bỏ phối cảnh. Trong khi chủ nghĩa nguyên sơ của Bernard đứng vững trên mặt đất, rắn rỏi và phàm tục, thì Gauguin theo bản năng hướng về tôn giáo, bí ẩn và đầy hình tượng.

Albert Aurier không nhầm, người đã dành một bài dài năm 1891 về chủ nghĩa biểu tượng trong hội họa cho bức Vision après le sermon. Isabelle Morin Loutrel, người phụ trách tại bảo tàng Orsay, đồng giám tuyển của triển lãm Beyond the Stars, cho biết: « Aurier đã coi tác phẩm này như biểu tượng của chủ nghĩa tượng trưng. » Gauguin vẽ một mặt hiện thực, mặt khác là viễn cảnh cuộc đấu tranh của Jacob với thiên thần, trong một bối cảnh tinh thần. Nhu cầu tâm linh xuyên suốt khung cảnh như trong mơ này. Trong một bức thư gửi Van Gogh, họa sĩ giải thích rằng «cảnh quan và cuộc đấu tranh chỉ tồn tại trong tâm trí khi người ta cầu nguyện sau bài thuyết giảng« , ở đó có sự tương phản và độ vênh giữa tập hợp tự nhiên và cảnh tượng «phi tự nhiên».


Kinh thánh kể rằng Jacob bị trật khớp hông trong cuộc vật lộn với vị khách bí ẩn ban đêm. Gauguin làm phong phú thêm tầm nhìn của mình với việc quan sát trực tiếp các đô vật trẻ Breton.

Aurier cũng mô tả bức tranh: “Xa xa, trên một ngọn đồi với đất nền đỏ son hiện ra hoành tráng, nơi diễn ra cuộc chiến trong Kinh thánh của Jacob với thiên thần. Trong khi hai người khổng lồ huyền thoại, mà khoảng cách biến họ thành tí hon, chiến đấu trong cuộc chiến dữ dội của mình, những người phụ nữ đứng nhìn […]. Họ tỏ thái độ tôn trọng và những khuôn mặt biểu cảm của tạo hóa đang đơn giản lắng nghe câu truyện cổ tích phi thường […]

Vẻ đẹp mộc mạc của những phụ nữ thôn quê Breton, những trang phục tuyệt vời của họ trở thành một trong những họa tiết yêu thích của họa sĩ ở Pont-Aven, khi ông đã mệt mỏi với sự màu mè của đô thị. Gauguin nói rằng ông đã đạt được trong tác phẩm này « tính mộc mạc đồng quê và thành tín tuyệt vời« . Sự thô ráp của khuôn mặt làm tăng hiệu ứng bí ẩn của cảnh, trong con mắt của những người thành tín.

Trích từ kinh Sáng Thế, chủ đề thường được các nghệ sĩ thể hiện từ thời trung cổ. Gauguin có lẽ đề cập đến bức tranh lớn của Delacroix trong nhà thờ Saint-Sulpice. Nhưng nó cũng bao hàm các đấu vật sumo của Hokusai và nhiều điều ở Bretagne. Cuộc đấu truyền thống của người Breton đã truyền cho ông cảm hứng vẽ một bức tranh vài tháng trước đó.

Bức tranh đã châm ngòi cho một cuộc chiến khác, một cuộc bút chiến. « Émile Bernard trách Gauguin đã bắt chước phong cách và bố cục của bức Những người phụ nữ Breton trên đồng cỏ » – Claire Bernardi, người phụ trách tại Musée d’Orsay, giải thích. “Càng rời xa phong cách tổng hợp, ông ấy càng có vẻ gay gắt với Gauguin, thậm chí tuyên bố đã phát minh ra phong cách này, và chỉ trích dẫn bức La Vision apres le sermon. Bài báo của Aurier khiến ông nổi giận. Gauguin đã định dâng bức tranh của mình cho nhà thờ Pont-Aven, nhưng sau đó ông lại mang đến nhà thờ làng Nizon. « Tôi đã vẽ một bức tranh cho nhà thờ, tự nhiên nó bị từ chối, » ông ngắn gọn. Sự táo bạo và tính thần bí với màu sắc của lửa khi đó, « dĩ nhiên », không thể chấp nhận được. Nhất là trong một nhà thờ …

dịch từ Connaissance des Arts

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ :


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

Munch: Nghệ thuật là niềm khát vọng kết tinh của con Người.

Edvard Munch (1863-1944) là một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất Bắc Âu. Giữa chủ nghĩa biểu tượng đang trào lưu lúc đó và chủ nghĩa biểu hiện sơ khai, tác giả của kiệt tác « Tiếng thét » (Le cri) là một họa sĩ của tâm hồn và cảm xúc. Chủ nghĩa bi quan nơi ông cũng không xa triết học của Arthur Schopenhauer, Friedrich Nietzsche, cũng như thơ của Mallarmé. Trong các tác phẩm của mình, ông tiếp cận chủ đề về cái chết, sự hoảng sợ, nỗi đau.. một cách trữ tình hơn là hiện thực. Trong không khí của cái bị gọi là « sự suy đồi cuối thế kỷ », Munch đã sáng tác một tác phẩm có tính tiểu sử sâu sắc và là một trong những bức độc đáo nhất của phong trào biểu tượng.
Ông nói: « Nghệ thuật là niềm khát vọng kết tinh của con Người. »

Edvard Munch ra đời tại Oslo. Ông được đặt tên Christiania cho tới năm 1925. Bố ông là một bác sĩ quân y và gia đình nói chung khá giả. Tuy nhiên, từ nhỏ Edward đã phải đối mặt với cái chết của mẹ và một người chị, nên tính cách ông khá yếu đuối và hay lo âu bất an. Ông được một bà dì nuôi dạy, người đã khuyến khích ông phát triển tiềm năng hội họa của mình.

Niềm khát khao trở thành họa sĩ lớn dần, ông bắt đầu theo học vẽ tại Học viện Hoàng gia, sau khi từ chối khoá học kỹ sư . Năm 20 tuổi, ông đi du lịch châu Âu, đến Berlin, Paris.. nhờ có học bổng. Chính tại thủ đô nước Pháp, ông đã biết đến các họa sĩ tiền-ấn-tượng, đặc biệt là các tác phẩm của Paul Gauguin và Vincent Vangogh.

Trở về Na Uy, Munch thường lui tới các chốn phóng túng và giao thiệp với những người theo chủ nghĩa vô chính phủ. Cá tính bất an đẩy ông khám phá các chủ đề hỗn tạp và quái dị. Ông đã chịu các cơn ảo giác, sự ghen tuông quá đà, rồi vẽ một bức tranh có tên « Đứa trẻ bệnh tật » (L’enfant malade – 1885). Ngày thứ hai tại Paris, ông nhận tin cha mất, điều khiến tinh thần ông một lần nữa bị đảo lộn.

Munch là một họa sĩ của cảm xúc nhưng cũng rất ma mị. Các chủ đề của ông thường dò vào ngóc ngách tăm tối nhất trong tâm lý con người, nơi những hoảng sợ, những ám ảnh, những đau đớn .. ẩn trốn. Những chủ đề của ông thuờng đến từ những suy tư tự vấn về sự tồn tại của chính bản thân. Mỗi tác phẩm đều thấm đẫm một tâm lý căng thẳng trong im lặng. Các triển lãm của ông khiến công chúng bối rối.

Càng như vậy thì ông càng nổi tiếng, nhất là ở Đức. Ở Berlin và Paris, Munch cũng phát triển tài hoa trong mảng chạm khắc và in khắc gỗ. Nhưng cái chết tiếp tục không buông tha ông. Năm 1895, ông lại mất một người anh trai  và một người em gái thì phải nhập viện tâm thần. Ông cũng không hạnh phúc trong các mối tình của mình. Ông từng có một mối tình khá say mê với một phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc – Tulla Larsen. Sau khi chia tay, ông rơi vào trầm cảm.

Trong thời kỳ chiến tranh thế giới, Munch sống không xa Oslo. Ông mua một căn nhà ở Skoyen,  từ đó trở thành nơi ở và xưởng vẽ của ông.  Trong không gian của riêng mình, Munch để tâm vẽ rất nhiều tranh phong cảnh.. Sức khoẻ yếu dần, và thị lực của ông bị rối loạn, rồi Đức quốc xã xâm chiến Na Uy và nhiều nguồn tin cho rằng ông bị chúng sát hại. Ông mất năm 1944, sau khi hoàn thành tác phẩm về thành phố Oslo.

Tác phẩm bất hủ : Tiếng thét (1893-1917).

Munch đã thực hiện khoảng 5 phiên bản về chủ đề sự hoảng loạn đó. Lấy cảm hứng từ một lần đang đi dạo, họa sĩ trình làng một nhân vật trông như xác ướp với hai tay bịt tai. Ông ta đang tìm cách thoát khỏi một tiếng kêu không thể chịu đựng nổi nữa ? Ông ta vừa là nhân vật chính vừa là nạn nhân vô danh của một cảnh khủng khiếp. Bầu trời thì đỏ quạch và dông bão, có lẽ cảm hứng từ một hiện tượng khoa học thực tế: tro bụi bay tung lên không trung từ một vụ phun trào núi lửa ở Indonesia, dội tới tận những vùng bắc Âu. Đó là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật, được khắp nơi  diễn dịch và bắt chước.

Munch từng tâm sự về cảm xúc sáng tác bức họa nổi tiếng này: « Lúc đó tôi đi dạo với hai người bạn, mặt trời đang lặn, bỗng nhiên bầu trời chuyển sang đỏ quạch như máu, tôi dừng lại, cảm thấy kiệt sức, tôi vịn vào thành cầu .. nó như có máu và những lưỡi lửa phủ lên mặt vịnh đen xẫm của thành phố.. Các bạn tôi vẫn đi, còn tôi dừng lại, run lên vì sợ hãi… Tôi nghe như có một tiếng kêu thất kinh xuyên thấu vũ trụ.. »

Ma cà rồng (Vampire – 1893)

Bức tranh về người đàn bà màu đỏ không loại trừ các yếu tố gợi tình, nhưng người đàn bà hiện ra ở đó trong tư thế của một kẻ cầm chịch nguy hiểm và tàn nhẫn. Làn tóc xõa ra phủ lên người tình và  cô ta bắt đầu nhấm nháp một nụ hôn chết chóc. Trong khi thể hiện người đàn bà đáng gờm với mái tóc xõa, Munch cho thấy đó chỉ là một cảnh riêng tư. Cặp đôi đồng nhất trong một dạng trói buộc nhau, một kiểu trốn tránh báo trước số phận thảm khốc.

Chân dung tự hoạ, giữa đồng hồ và giường (1940 – 1943)

Edvard Munch đã thực hiện khá nhiều bức chân dung tự họa trong suốt chặng đường sự nghiệp của mình. Trong một bức vẽ muộn sau này, hoạ sĩ tự thể hiện mình như một tù nhân của thời gian, bị mắc kẹt giữa các giờ đồng hồ trôi đi một cách vô vọng và chiếc giường (nơi sinh và nơi chết). Già nua và cô đơn, bị đông cứng trong một sự bất động chết chóc. Mặc dù xuởng vẽ khá sáng đèn và đầy tranh (biểu tượng của đời nghệ sĩ), bóng cây thập tự in xậm xuống nền dưới chân họa sĩ, như một tuyên bố về cái chết của riêng ông.

dịch từ tạp chí BeauxArts, số 450.

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

Paul Delvaux- những giấc mộng bí ẩn giữa cổ điển và hiện đại

Paul Delvaux thuộc số ít các họa sĩ nổi tiếng của Bỉ được các nhà sưu tập tranh trong và ngoài nước tìm kiếm. Dù thị trường nghệ thuật Bỉ cũng khá sôi động, Delvaux chưa bao giờ tìm cách bán tranh. Ít nhất, đó cũng không phải là việc ưu tiên của ông. Ông đã giữ hầu như tất cả các tác phẩm và chờ khá lâu trước khi được chú ý đến vào thập niên 60. Năm 1967, với sự ra đi bất ngờ của Magritte, chính phủ nhận ra họ đã đánh giá tài năng của nghệ sĩ siêu thực khá muộn, liền quay sang chăm sóc Paul Delvaux bằng cách tổ chức các cuộc triển lãm cho ông ở nước ngoài. Nhờ sự hỗ trợ chính thức này, Paul Delvaux dần hút được danh tiếng quốc tế. Mặc dù chưa đạt được đỉnh cao vào thời đó, nhưng Delvaux đã kịp trở thành một họa sĩ không còn dễ mua nữa. Ngày 6/4/1967, Pénélope (một bức khổ 120 x 176cm) vẽ năm 1946 đã được định giá 9250 đô la tại nhà Parke-Bernet ở New York, trong khi bức La ville endormie (Thành phố mơ màng) – vẽ năm 1938, khổ 135 x 170 cm, được bán với giá 32000 bảng Anh tại nhà Sotheby’s ở London ngày 10/12/1969. Tác phẩm La légende égyptienne (Huyền thoại Ai Cập – 1953) được bán với giá 11500 bảng, sau đó hơn 4 năm được bán lại với giá gấp 3 (450.000 franc Pháp) tại Paris.
Danh tiếng của Paul Delvaux bắt đầu thăng hoa vào đầu thập niên 70 và kéo dài cho tới tận những năm 90. Tháng 5/1991 nhà Christies ở New York đã mua lại bức La ville endormie với giá 1 triệu 250 ngàn đô la.
La ville endormie – 1938


Delvaux không vẽ nhiều (chỉ khoảng 400 bức), do ông thường vẽ tranh khổ lớn và vẽ rất tỉ mỉ. Các nhà phê bình nghệ thuật cho rằng những sáng tác của Delvaux giai đoạn 1936-1950 là những tác phẩm quan trọng nhất, trong số đó khoảng 50 bức là tuyệt tác.
Những chủ đề trở đi trở lại trong tranh ông thường là: khoả thân nữ, kiến trúc cổ, tàu hoả, nhà ga.. Các tác phẩm của Delvaux có sự kết hợp ma mị giữa phong cách cổ điển và hiện đại, như một người bạn từng tả Paul « một người luôn đắm chìm trong những giấc mộng bí ẩn của riêng ông ». Paul Delvaux tâm sự: « đối với tôi, vẽ là một cuộc phiêu lưu khác. Sáng tác tranh là một ngiên cứu về sự cân bằng giữa không gian đa chiều, kết nối với nhau bởi những sợi dây vô hình ».
Dù chưa bao giờ nhận mình thuộc phái siêu thực, và được đánh giá là một họa sĩ nhiều chất thơ, nhưng Paul Delvaux vẫn được xếp vào dòng tranh siêu thực cùng Magritte René.
(nguồn: Arts Antiques Auctions hors series)
Bảo tàng Paul Delvaux chính thức được mở năm 1982. Do dịch bệnh Covid, bảo tàng hiện đóng cửa và sẽ mở lại từ 2/4/2022.

Những điều có thể bạn chưa biết về Marc Chagall.

1) Lớn lên trong một thế giới không có hội họa
Không thể nói là Chagall đã thấm đẫm trong thế giới hội hoạ ngay từ nhỏ. Sinh ở Vitebsk (Biélorussie) năm 1887 trong một gia đình Do thái truyền thống. Thời đó, vùng giữa Ba Lan và tây Nga, dòng đạo này bị cấm triệt để. Nhà Chagall lúc đó toàn những bức tường trống trơn..
Chagall lúc đó tuổi thiếu niên, bất chấp sự miễn cưỡng của gia đình, đã học vẽ trong xưởng của Yuri Pen (cũng là thầy của Ossip Zadkine và El Lissitzky), trước khi hoàn thành khóa đào tạo của mình với Léon Bakst ở Saint Petersburg vào những năm 1900. Cũng không có nghĩa là tuổi thơ không ghi dấu ấn trong nghệ thuật của ông: văn hóa dân gian Do Thái, âm nhạc Yiddish và kiến ​​trúc Vitbesk hiện diện khắp nơi trong các tác phẩm của Chagall.

2) Ở Paris, ông khoả thân khi vẽ…
Chả phải điên rồ hay khiêu khích gì, mà thực tế nó phải vậy. Giống nhiều đồng hương của mình, Chagall dành chiến thắng ở Paris với một bức lập thể nâu-vàng. Đến Pháp năm 1910 ông tới ở Laruche, nơi cùng với các đồng nghiệp là Amedeo Modigliani, Jacques Lipchitz và Chaïm Soutine, ông đã khuấy động « trường phái Paris » nổi tiếng. Chagall thậm chí còn tìm thấy sự hỗ trợ quan trọng ở Guillaume Apollinaire và thậm chí cả ở Blaise Cendrars. Nhưng « cơm áo không đùa với khách thơ » và gã nhập cư Chagall đã phải đối mặt với cuộc sống du mục. Nhịn ăn thường xuyên, Chagall không muốn tốn phí giặt là quần áo và đó là lý do ông hay khoả thân khi vẽ: để không làm vấy bẩn vài bộ quần áo trong tủ quần áo héo hon của mình.

3) Là giáo sư ở Vitebsk, nhưng ông bị Malevitch tiếm quyền.
Sau chuyến thăm Đức từ năm 1913 đến 1914, chiến tranh buộc Chagall phải trở về Nga. Lúc đầu nhiệt tình, ông coi cuộc Cách mạng năm 1917 là một cơ hội để cải cách việc giảng dạy nghệ thuật. Được bổ nhiệm làm Ủy viên Mỹ thuật vào năm 1918, ông thành lập một trường nghệ thuật ở Vitebsk. Để xây dựng một phương pháp sư phạm quanh các xưởng vẽ tự do, ông đã mời các học giả El Lissitzky và Kazimir Malévitch làm giáo sư nhưng sau đã hối hận. Sự trừu tượng của cả hai nhanh chóng được ưu tiên hơn phong cách Chagall, quá đậm các tham chiếu tôn giáo để có được sự ưu ái của các nhà chức trách. Và thế là, Chagall bị gạt ra và buộc phải từ chức để nhường chỗ cho Malevitch, người trở thành lãnh đạo trường từ năm 1922. Chagall không chần chừ đã quay lại Paris luôn, nhưng bản thân Malevitch sau đó cũng bị chế độ Xô Viết gạt ra ngoài lề.

4) Suýt thoát khỏi Shoah
Khi cộng đồng của ông ở Vitebsk bị cô lập dưới thời Sa hoàng, Marc Chagall nhận thức rõ rằng rất khó để trở thành một người Do Thái ở châu Âu thế kỷ XX. Việc Hitler lên nắm quyền ở Đức vào năm 1933 đã làm dấy lên một mối đe dọa rõ ràng hơn nhiều. Họa sĩ tố cáo sự đàn áp người Do Thái của Đức quốc xã bằng cách liên kết cộng đồng của mình với hình tượng Chúa Kitô (qua bức La Crucifixion blanche, 1938). Cuộc đình chiến của Pétain, và sự đầu hàng Hitler đã khiến nhiều người Do Thái ở Pháp buộc phải kiếm giấy tờ giả hoặc giấy chứng nhận rửa tội, nhưng Chagall đã từ chối làm như vậy, do lòng tự trọng cao. Bị bắt vào mùa xuân năm 1941, ông nợ ơn cứu mạng của một nhà báo Mỹ dũng cảm Varian Fry, người tổ chức đưa các nghệ sĩ và trí thức sang Mỹ. Tên của Chagall chỉ được thêm vào danh sách 2.000 cái tên vào phút chót, nhờ sự năn nỉ của Alfred H. Barr, giám đốc đầu tiên của MOMA tại New York.

5) Từng dùng nghệ thuật của mình cho sự minh họa
Từ Manet đến Matisse, nhiều họa sĩ đã thử sức với lĩnh vực minh họa. Khi ở Berlin năm 1922, Chagall đã học về chạm khắc. Nhạy cảm với màu sắc, ông thực hiện những bức hoạ kiểu trẻ con với sự hài hước tinh tế. Ông muốn để chúng đối thoại với các văn bản, được rút ra từ các tác phẩm kinh điển và văn học đương đại. Trong số những cuốn sách đẹp nhất do Chagall minh họa, có Những linh hồn chết của Gogol năm 1948 và Ngụ ngôn La Fontaine năm 1952, cả hai đều là sở hữu của nhà sưu tập Ambroise Vollard. Nhưng chính nhà xuất bản Tériade đã mang đến cho ông sự hợp tác tuyệt vời nhất, với năm đơn đặt hàng từ năm 1948 đến năm 1967, trong đó cuốn Kinh Thánh, xuất bản năm 1956, chắc chắn là một trong những kiệt tác của họa sĩ.

6) Huyền bí hơn cả tôn giáo, hành trình tâm linh của Chagall khá phức tạp
Chagall rất gắn bó với Do Thái giáo mặc dù ông tách khỏi sự nghiêm khắc tôn giáo của gia đình mình. Quan sát các nghi thức Công giáo và Chính thống giáo, cảm động với những bức họa Kitô giáo, sự liên hệ của ông với thần thánh không bao giờ giáo điều, nó còn thần bí hơn cả tôn giáo. Là một người đam mê nhập môn, Chagall đã tham gia Hội Tam điểm. Tại Paris, ông được Apollinaire giảng về thuật giả kim và các khoa học huyền bí và muốn hoàn thiện Do Thái giáo của mình qua phái kabbalistic bí ẩn. Cuối cùng, nghệ sĩ bắt đầu quan tâm đến các tôn giáo khác để giúp họ đối thoại tốt hơn, trong hành trình tìm kiếm chủ nghĩa phổ quát mà minh chứng đẹp nhất là những ô cửa kính màu. Ở Metz cũng như ở Reims, ông đã thể hiện là một trong những nhà cải cách vĩ đại nhất của thế kỷ 20.

(dịch từ Beaux-Art Magazine số 447)

https://www.beauxarts.com/grand-format/ce-que-vous-ne-saviez-peut-etre-pas-sur-marc-chagall/?fbclid=IwAR1qRdHh_fwGXuvV_Q_E7gKlVfySYBTivibJAsBXF2cFjQcayW93Z1djasI

ĐÊM ĐẦY SAO…

“Con hãy nhìn xem, có cả một thế giới khác đang ở trên kia, những thứ chúng ta có thể nhìn thấy nhưng không hiểu được! « – người đưa thư nói với con trai ở cuối phim Loving Vincent.
Trời cho Vangogh tài năng tuyệt vời, và Trời cũng lấy đi không ít thứ của ông, đinh ninh rằng những thứ đó sẽ giúp ngưòi đời bớt ghanh ghét ông hơn ?
Ở đời, làm người đã khó, đã khổ. Làm họa sĩ còn khó hơn, khổ hơn.
Trời cho tài năng, cho cảm xúc thì mấy ai hiểu lúc đương thời ? còn bị coi như những kẻ điên, những kẻ có vấn đề tâm thần hoặc bị ghanh ghét, đố kỵ … Chết rồi người ta mới ca ngợi, tranh bán hàng triệu đô thì người khác hưởng ! Lúc sống thì cô đơn kinh luôn. Giờ mình hiểu sao bố mình đã không ủng hộ mình trở thành họa sĩ 🙂
Câu chuyện của Vangogh khiến mình nhớ tới vị vua trẻ ở lâu đài Neuschwanstein. Đó là một lâu đài nguy nga sừng sững trên núi vùng Bavaria. Vị vua chết trẻ khi lâu đài chưa hoàn thành. Thời đó sử sách nói vị vua bị điên, bị tâm thần, đã nhảy hồ tự tử … Ngày nay thì người ta nhìn nhận khách quan hơn rằng vị vua trẻ có thể bị trầm cảm do áp lực về quyền lực và các xung đột tư tưởng… Mình có nói chuyện với một số người Đức về vấn đề này thì họ bảo thời đó người ta còn chưa biết đến bệnh trầm cảm, nên tất cả bị dồn vào một thứ : bị điên !
Đây cũng từng là bi kịch của nhiều tài năng trong lịch sử: của Camille Claudel (người tình Rodin), của Théo em trai Vangogh, của Gauguin, của Goya, của Munch … vv…

Cái chết của Vincent đến giờ vẫn là câu hỏi to tướng : nếu Vangogh tự tử thì khẩu súng sao không tìm thấy ??? những con quạ đen trong bức tranh cuối cùng của Vangogh đã có thể nhìn thấy điều gì đó, nhưng chúng đã không thể nói !!! Cơm áo không đùa với khách thơ, và trái tim mẫn cảm của một nghệ sĩ cũng khó sống được với những trò đùa ác, sự ngu dốt của con người …
« Những ánh sao kia luôn làm anh mơ ước « – Vangogh viết trong lá thư cuối cùng gửi em trai Théo. « Có thể chúng ta chết để vươn tới một vì sao ở đó « .
Nỗi buồn là mãi mãi ! – Vincent nói lời cuối cùng trước khi nhắm mắt trong căn phòng màu xanh ở Arles, miền nam nước Pháp khi mới 37 tuổi.
Bộ phim Loving Vincent (bản tiếng Việt dịch là Vincent thuơng mến) được vẽ tay bởi nhóm hơn 100 họa sĩ Balan, theo phong cách của Vangogh. Kể câu chuyện bằng ngôn ngữ của Vangogh, như một lời tri ân ♥ ♥ ♥ (5/5/2018)

Đêm đầy sao trên sông Rhone – Vincent Vangogh (1888)