Jerome Bosch: bậc thầy kỳ bí.

Ngay thế kỷ 15, họa sĩ thiên tài Jerome Bosch (Hà Lan) đã nhìn ra những vấn đề to lớn của nhân loại. Các bức tranh nổi tiếng của ông như Vườn lạc thú trần gian (Jardin de delices), Con thuyền của những người điên (La nef des fous), Cái chết của kẻ keo kiệt (La morte de l’avare)… đã cho thấy hình hài của một trong những vấn đề khủng khiếp nhất của nhân loại: vấn đề tâm lý – thần kinh.

Ngày nay, nếu quan sát kỹ trong xã hội bạn sẽ nhận ra rất nhiều người bị các bệnh về tâm lý (psychopath) mà họ không tự nhận thức được. Căn bệnh vô hình này đang dày vò ngấm ngầm phá hủy cuộc sống của bao người và ảnh hưởng cả cuộc sống của những người xung quanh…tạo nên những xung động vô thức ra môi trường. 

Thế giới chúng ta sống chắc chắn không chỉ có màu hồng. Nơi đây khá nhiều rủi ro rình rập. Con người bị tấn công trên nhiều mặt của cuộc sống: môi trường, tuổi tác, thực phẩm, tiếng ồn, bệnh tật, thời tiết, tai nạn, các sự kiện xảy ra trong đời sống, các áp lực, sự căng thẳng, rồi thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh, suy thoái kinh tế … Ai không vững vàng sẽ rất dễ rơi vào trầm cảm, rối loạn tâm lý… Cuộc sống xô đẩy con người và con người xô đẩy nhau 😥

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng viết trong một truyện ngắn: vượt qua một bể lọc lừa, vượt qua một bể ái tình…đời nát toét ra .. Kẻ nào có phao là đồng tiền hay lòng nhân đức còn đỡ, không có phao xót lắm…😰

Nhiều người đã không chịu đựng nổi các trò đời, những vô duyên trơ tráo, những nghịch cảnh, và các áp lực trong cuộc sống… đã vĩnh viễn nằm xuống dưới những cú đánh của nó.

Trong bức tranh Con thuyền của những người điên, Jerome Bosch đặt loài người vào một chiếc thuyền nhỏ trên biển thời gian. Những người trên thuyền đều điên (tức có vấn đề thần kinh). Họ ăn uống, yêu đương, lừa lọc, tham dự những trò chơi ngu ngốc, theo đuổi những thứ hão huyền, hoang tưởng, thậm chí tội lỗi mà không biết…trong khi con thuyền trôi giạt vô phương và còn có nguy cơ bị chìm mà những người trên thuyền không nhận ra. Có lẽ họ sẽ chỉ nhận ra khi thuyền đã chìm. Chỉ khi đau đớn con người mới học được bài học gì đó ? Trong bức tranh, tôn giáo được tượng trưng bằng hai tu sĩ nhưng họ cũng thuộc vào nhóm những người sống trong sự mù lòa vô minh, cũng tham dự vào những trò chơi ngu ngốc. Nụ cười của Bosch rất buồn khi sáng tác bức tranh này. Ông không chỉ gây xúc động, ông còn gây công phẫn để mở mắt chúng ta bằng những cảnh báo rất riêng của ông.

Bức tranh được cho là sáng tác vào thế kỷ 15, hiện được bảo quản và trưng bày tại bảo tàng Louvre (Paris).

Một số họa sĩ siêu thực nổi tiếng như Dali, Magritte, Max Earnst sau này cũng có ảnh hưởng từ họa sĩ thiên tài Bosch và coi ông như một người thầy chưa từng gặp.

Sơ Wendy Beckett viết trong cuốn Lịch sử Hội họa: Jerome Bosch là một họa sĩ kỳ lạ. Ông thoát khỏi sự bó buộc của truyền thống Flandre. Phong cách độc đáo của ông có tính tự do khiến người ta sửng sốt. Chủ nghĩa tượng trưng trong tranh ông có sức mạnh đặc biệt tới nay vẫn không ai sánh kịp.  (25/12/22)

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

Goya, một tầm vóc vĩ đại.

Bắt rễ từ thế kỷ 18 – 19, nghệ thuật của Goya dường như đang biến hoá trước mắt chúng ta.
Các tác phẩm thời kỳ đầu của ông mang phong cách của họa sĩ chế độ xưa (thời trước cách mạng Pháp), trong khi sau năm 1792, chứng kiến những nỗi kinh hoàng và thất vọng, người nghệ sĩ với tài năng riêng cho chúng ta thấy nghệ thuật của ông mang những tầm nhìn tuyệt vời.

Goya sinh năm 1746, trước Mozart 10 năm, trước Beethoven 24 năm. Ông 46 tuổi khi Cách mạng Pháp nổ ra, 57 tuổi vào năm 1800. Do vậy ông là người của thế kỷ 18. Nhưng ông đã sống khá lâu – cho đến tận năm 1828. Các tác phẩm của ông chứa đựng những khía cạnh hoàn toàn mới và có tính dự báo tương lai, đến nỗi nó thậm chí thuộc về thế kỷ của Delacroix, Baudelaire và Manet. Cả ba cũng tỏ lòng thành kính với thiên tài của ông. Việc có gốc rễ cả từ thế kỷ 18 và 19 khiến các tác phẩm của Goya rất đa dạng và phong phú.

Cách mạng và sự đổ vỡ.
Người ta thường cho rằng khúc ngoặt quyết định là vào năm 1792. Khi một căn bệnh rất nặng suýt giết chết Goya, buộc ông phải điều trị dài ngày và khiến ông bị điếc vĩnh viễn. Cơn lốc các sự kiện chính trị cũng góp phần vào sự đổ vỡ này. Cách mạng Pháp gây những hậu quả nghiêm trọng ở Tây Ban Nha. Nhóm Ilustrados, đại diện Tây Ban Nha của phong trào Khai sáng, những người chia sẻ lý tưởng của các triết gia Pháp cùng với Goya, bị săn lùng: các bộ trưởng Floridablanca, Cabarrus, Jovellanos, Ceán Bermúdez, Saavedra, tất cả những người bảo vệ họa sĩ, đều bị tù đày hoặc lưu vong.

Căn bệnh của Goya, vẫn còn là một bí ẩn, cũng có thể được hiểu như dấu hiệu của tình trạng bất ổn giữa hai ngả: ông ủng hộ lý tưởng của phong trào Khai sáng và Cách mạng, nhưng đồng thời ông cũng là Họa sĩ của triều đình (Pintor de Camera), thành viên của Hàn lâm viện, có liên hệ bản chất với hệ thống quân chủ mà ông đã nỗ lực leo lên từng bậc với tham vọng đạt đến đỉnh cao. Sự khác biệt này có thể chịu được ở mức độ nào?

Tuy nhiên, sau một thời gian dài dưỡng bệnh tại nhà người bạn là Sebastiàn Martinez ở Cadix, Goya không còn là một họa sĩ như trước nữa. Năm 1794, ông gửi đến Hàn lâm viện một loạt mười một bức tranh, trong đó ông viết, ông đã để cho “tính ngẫu hứng và phóng tác” được hoàn toàn tự do. Đó là những bức tranh với các cảnh cháy nổ, đắm tàu, nhà tù và trại điên, mang đặc điểm thực tế của những thứ được chứng kiến, chứa  thông điệp ngầm qua những tưởng tượng hãi hùng. 

Họa sĩ triều đình
Sinh ra gần Zaragoza, có cha là một thợ thủ công và mẹ xuất thân từ một gia đình quê nề nếp, Francisco Goya học nghề với một người thầy trong vùng, José Luzán, sau đó thi trượt mấy lần trong các cuộc thi vào Hàn lâm viện San Fernando ở Madrid. Tài năng của Goya không sớm bộc lộ.

Liệu ông có giống với « gã beo béo » mà nhà văn Pierre Michon tưởng tượng (trong Ông chủ và người hầu) ? Gã tỉnh lẻ thô kệch bị lóa mắt bởi bao hình ảnh lộng lẫy trong các cung điện của Madrid cũng như sự hào hoa của xã hội thượng lưu và vẻ kiêu kỳ của các đại tiểu thư không bao giờ với tới ? Lóa mắt và choáng ngợp bởi tham vọng đạt được điều đó, gia nhập với họ và trở thành họa sĩ vĩ đại của thế giới, tiếp cận các đại tiểu thư xinh đẹp …? Mọi người cho rằng với bức chân dung tự họa năm 1771, đầy sinh lực và vững vàng, hé mở phần nào trình tự tiến triển trong sự nghiệp của ông.

Trở về sau một thời gian nghiên cứu ở Ý, ông nhận được những đơn đặt hàng đầu tiên từ các nhà thờ ở Saragosse và giới quý tộc Aragon. Ông cưới Maria Josefa Bayeu, chị gái của anh em nhà Bayeu, những họa sĩ Aragon có tiếng và thân thiết với Anton Raphael Mengs, người khá ảnh hưởng đến sự nghiệp của ông sau này. Nhờ sự bảo trợ của Francisco Bayeu, ông được vào Xưởng sản xuất thảm Hoàng gia, nơi trong suốt mười lăm năm, ông đã vẽ rất nhiều, mang lại thu nhập đều đặn và xác định vị thế của ông.
Với mục đích trang trí cho cung điện của hoàng tộc, những tấm thảm trình bày các chủ đề vui vẻ, những cảnh phổ biến như Lối đi dạo ở Andalusia, nơi có các sự kiện hoành tráng, các trang phục dân tộc … Nhưng thành công phụ thuộc vào sự công nhận của Viện Hàn lâm. Goya được nhận vào đó vào năm 1780; mười lăm năm sau, ông thay thế Francisco Bayeu đảm nhiệm việc quản lý viện. Đồng thời, ông trở thành họa sĩ vẽ chân dung chính của tầng lớp quý tộc Tây Ban Nha, được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các Công tước xứ Osuna và Medinaceli cũng như chủ ngân hàng Cabarrus.

Tự do chói sáng.
Năm 1799, ông được bổ nhiệm làm Họa sĩ đầu tiên của nhà vua. Gia đình Charles IV, bức chân dung tập thể cỡ lớn được vẽ vào năm 1800, đánh dấu đỉnh cao của sự nghiệp chính thức, được sánh ngang với bức Thị nữ Les Menines của Vélasquez (một trong ba người thầy của ông, cùng với Rembrandt và mẹ thiên nhiên, như ông tuyên bố). Ông đã trưởng thành từ những bài học của người thầy đầu, để đạt được một phong cách quyết đoán, táo bạo, quyến rũ, nhưng vững vàng và dễ chịu hơn so với kỹ thuật điêu luyện quý phái của bậc thầy Sevillian. Ông cũng khẳng định tính độc lập trong nghệ thuật của mình qua sự thông tường đáng kinh ngạc khi nhìn vào các người mẫu: những người mẫu này bị méo đi bởi những tật xấu, đến mức trông như những biếm họa.

Không lâu trước đó, vào năm 1798, ông vừa hoàn thành một công trình hoành tráng, những bức bích họa ở Nhà thờ lớn San Antonio de la Florida, nơi ông được sánh ngang với Tiepolo, nhưng bằng một phong cách hiện thực và dân dã  rất riêng. Đó cũng là giai đoạn ông qua lại với nữ công tước xứ Alba, và hình ảnh hai thiếu gia, một người có quần áo và một người khỏa thân, với những cử chỉ rõ ràng khiêu khích trực tiếp người xem, đã ám ảnh Manet.
Trong những năm 1790, Goya đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp và nghệ thuật. Nhưng đó cũng là thập kỷ đau đớn khủng khiếp với ông do bệnh tật gây ra. Kể từ đó, hội họa của ông vừa đạt được sự tự do tuyệt vời vừa bắt đầu hướng tới các chủ đề kịch tính, u ám hay ma mị: những cảnh đấu bò tót, những kẻ giết người, mất trí, kẻ ăn thịt người, ác quỷ và phù thủy …

Nghệ thuật chạm khắc vốn quen thuộc với ông, và ông đã khắc một phần lớn các kiệt tác của Velasquez, rồi sau đó là một loạt các tác phẩm như: Sự bất chợt (Les Caprices), Thảm họa chiến tranh (Les Désastres de la guerre),  Đấu bò (La Tauromachie), Sự khác biệt (Les Disparates, còn gọi là Ngạn ngữ) – tạo thành một kỳ tác trong kiệt tác, một tượng đài khổng lồ của bóng tối hấp dẫn và đáng sợ, có lẽ là phần tuyệt đối nhất của thiên tài Goya.

Bức tranh Thảm họa, nửa thực nửa ảo, ngụ ý về những hành động tàn bạo của quân đội Napoléon từ năm 1808 trong cuộc xâm lược và chiếm đóng Tây Ban Nha. Lần đầu tiên trong nghệ thuật phương Tây, sự tàn bạo và kinh hoàng của hành vi con người được phơi ra dưới ánh sáng trực diện, không một chút sắc thái mang tính anh hùng hay lãng mạn. Hai tấm tranh lớn, La Charge des Mameluks, ngày 2 tháng 5 năm 1808 và Les Fusillades, Vụ nổ súng ngày 3 tháng 5 năm 1808, đều tưởng nhớ những sự kiện bi thảm này. Bức thứ hai đã trở thành một trong những biểu tượng to lớn của hội họa phương Tây và là biểu tượng được thế giới ngưỡng mộ về tính tử đạo của các dân tộc bị áp bức.

Hành trình đến tận cùng của bóng đêm.
Sau khi người Pháp rời khỏi, việc Ferdinand VII trở lại ngai vàng Tây Ban Nha đã kéo theo một làn sóng đàn áp chống lại phe Tự do. Goya, lúc này đã già, bị điếc, rời xa triều đình và Hàn lâm viện, thấm đẫm một chủ nghĩa bi quan cay đắng, nhưng lại khiến nghệ thuật của ông mang một tầm vóc vô cùng lớn lao. Năm 1819, ông chuyển đến một ngôi nhà mới ở ngoại ô Madrid, Quinta del Sordo (Ngôi nhà của người điếc), nơi ông trang trí tường bằng những bức họa u ám: những hình ảnh tuyệt vọng về một nhân loại không thể cứu vãn với sự ngu dốt và mê muội, bạo lực mù quáng và cái ác, được vẽ theo kiểu những biến dạng đáng sợ. Ông mang phong cách của chủ nghĩa biểu hiện một thế kỷ trước khi trào lưu chính hình thành.
Sự phục hồi của chế độ chuyên chế vào năm 1823 khiến ông lo sợ cho tự do của mình. Lấy lý do đi chữa bệnh, ông đến lưu vong ở Bordeaux, và sống bốn năm cuối đời ở đó cùng cô Leocadia Zorilla, người đến với ông sau khi vợ mất. Hơn 80 tuổi, Goya không mất đi chất nghệ thuật của mình, ông vẫn tiếp tục trải nghiệm. Những kiệt tác cuối cùng, như bốn tấm thạch bản chủ đề đấu bò, những bức họa nhỏ trên ngà voi hay bức tranh tuyệt vời mà họa sĩ tiền-ấn-tượng gọi là Cô bán sữa ở Bordeaux .. chứng minh tính sáng tạo nguyên vẹn và sức mạnh của một nghệ thuật vĩ đại lan tỏa. Bởi vì nó quan tâm đến thực tại, bao gồm cả những gì đen tối nhất, theo cách trực diện nhất, và bởi vì nó dò tới những góc hiểm hóc nhất trong tâm hồn con người, nơi ẩn náu những phi lý và điên rồ, nghệ thuật của Goya như soi sáng cho cả thế kỷ tương lai và báo trước những dòng chảy lớn của thời kỳ hiện đại.

(lược dịch từ Connaissances des Arts – số tháng 3/2021)

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

« Thiên thần gẫy cánh » của Picasso

Trên một nền xanh da trời mơ mộng, Picasso vẽ một người đàn ông nằm chổng mông, trông như một thiên thần vừa bị ngã sấp mặt xuống đất. Đôi mắt mở thao láo trên cái đầu đang quay nhìn « phần đuôi » của mình một cách ngu ngơ, kiểu « sao thế nhỉ » 😅.
« Thiên thần » có vẻ khá vất vả vì sự  nặng nề của anh ta, với chân tay thô kệch và những thứ « của nợ »  phơi ra rất siêu hiện thực 😎. Anh ta liệu bay nổi với những thứ vướng víu có sức trì kéo đó không ? Anh ta như đang loay hoay nên trở thành thiên thần hay cứ làm một con thú trần trụi bản năng ?  Một bài trên tạp chí mỹ thuật từng mỉa « con thú hoang » khi nói về nhân vật này của Picasso 😎
Bức tranh có tông dịu nhẹ nhưng lại toát lên sự giằng xé giữa hai thế giới: mộng mơ và đời thực. Một bức tranh hóm hỉnh nhưng sâu sắc. Một bức hiếm hoi và không hề nương tay hơn khi ông vẽ phụ nữ 😉

Picasso vẽ bức này vào giai đoạn cuối, khi ông đã quá trải đời, hiểu về con người, nhất là đàn ông. Giới nghiên cứu mỹ thuật đều biết ông mắc hội chứng sợ phụ nữ (vừa thích nhưng vừa sợ 😜), nên tranh vẽ các bà các cô là ông hay băm ra « cho bõ ghét ». Điều này thể hiện khá rõ qua bức Những cô gái vùng Avignon. Còn mấy bức ổng vẽ các cô bồ thì thôi rồi, luôn với cái nhìn sắc nhọn lột tâm can người mẫu.. Bởi vậy bức « Người đàn ông khỏa thân nằm » (L’homme couche’ nu – 1971) này quả là một bức hiếm hoi ông vẽ mẫu nam. Rất Picasso, rất sắc nhọn và hóm hỉnh nhưng cũng rất nhân văn.

Khen và chê quanh Modigliani

Nhân triển lãm Modigliani et l’Ecole de Paris ở Thụy Sĩ (từ 21. 6 đến 24. 11), tạp chí Mỹ thuật Pháp số mới nhất có bài viết sau:

Cũng như Chagall, Soutine hay Utrillo, Modigliani (1884- 1920) là một trong những nghệ sĩ có phong cách riêng hiện đại mà người ta chả biết xếp vào đâu. Người thì cho là ông thuộc nhóm các nhà cách tân (avant-garde), người lại nói ông thuộc phong cách cổ điển kiểu Ingres. Chàng nghệ sĩ Do Thái đến từ Livourne (Toscane) là hiện thân của mẫu họa sĩ bạc mệnh.

Sở hữu vẻ đẹp của vùng Địa Trung Hải, nhưng sức khỏe lại rất mong manh, Amedeo tới Paris lúc 22 tuổi và chết vì bệnh lao phổi lúc mới 35 tuổi. Hai ngày sau, người tình của ông nhảy lầu tự tử chết theo, lúc đó nàng đang mang thai đứa con thứ hai. 13 năm đủ để dệt nên một huyền thọai với những tình tiết đôi khi hơi ma mị, từ chuyên khảo đầu tiên của André Salmon năm 1926, lại càng dầy thêm những vùng mờ ảo trong câu chuyện về Modigliani. Khi thì chơi với nhóm Dã thú, lúc có mặt ở Bateau-Lavoir, nơi ra đời trường phái Lập thể, lúc lại thấy loáng thoáng bên hội Vị lai; Modigliani có vẻ không hứng thú gì với avant-garde. Nghệ thuật của ông có nét nguyên thủy, nhưng ông kiên định đi trên một con đường đơn độc, nơi những đôi mắt hình hạnh nhân, những chiếc cổ kéo dài trong những bức chân dung như tiếng vọng từ bên trong những chiếc mặt nạ châu Phi, hay những bức tranh của Parmesan hoặc Pontormo.

Trung thành với khuôn mặt người, chàng họa sĩ đẹp trai vẽ các bức chân dung và khỏa thân khá nhiều, tới mức triển lãm đầu tiên năm 1917 phải đóng cửa. Paul Alexandre và Leopold Zborowski là những nhà bảo trợ hiếm hoi cho nghệ sĩ này, và thành công đến với Modigliani một cách rụt rè vào năm 1914 với một tác phẩm điêu khắc.

Người ta nghĩ gì về chàng nghệ sĩ thích bình thơ của Dante và Verlaine này? Đối với Vlaminck và Cocteau “đó là một chàng quí tộc mà tạo hình của anh có một vẻ lịch lãm không chê vào đâu được”. Picasso thì bực mình khi cứ phải nghe câu “Modi le maudit” nên đã mua một bức của Modigliani rồi sau đó vẽ thẳng lên đó một tranh tĩnh vật. Nhưng một trong những phê bình cay nghiệt nhất lại chính từ người đồng hương, De Chirico. Trong hồi ký của mình,vị này ám chỉ “một thiên tài kiệt sức – kiểu Modigliani – trên một căn gác lạnh lẽo, khổ sở vì trung thành với lý tưởng cao cả, mơ màng một tuyệt tác mang cho mình danh vọng và tiền tài, nhưng cái tuyệt tác thường lại chỉ là miếng vỏ bánh giòn ngon miệng, như tất cả các chân dung và hình thể của Modigliani”.

Một phong cách lịch lãm buồn bã (Elégance mélancolique), hay một phong cách kiểu cách đơn điệu (manièrisme monotone)? Mời các bạn cùng thảo luận.

Có hai luồng ý kiến trái chiều sau:

Ủng hộ(của Stéphane Guégan – nhà sử học và phê bình mỹ thuật Pháp):

Nói “Có” với Modigliani, chính là thưởng thức không ngừng những chuyển động tinh tế của ông. Nói “Không” với Modigliani, tức là mắt bị đơ rồi, cũng giống sự khô cứng cũ rích kiểu phê bình Pháp. Cũng chả khác gì kiểu bịt miệng bịt tai Max Jacob, Appollinaire, Cocteau và Roger Fry, nếu không muốn dẫn thêm cả Le Clézio nữa.

Những nét thơ mộng tinh tế, những đuờng cong thần kỳ của một phong cách nghệ thuật hiện đại mà không chắp vá các thủ thuật của avant-garde. Một nghệ sĩ lớn lên từ sự dịu dàng của vùng Toscanes tự nhiên phải đương đầu với các thiên tài Paris đang nổi, Cezanne, Gauguin, Van Gogh, Toulouse-Lautrec và người đứng đầu lúc đó là Picasso. Cái nôi Ecole de Paris ấy đang ngập trong nhạt nhẽo, những thỏa hiệp hiện đại. Còn Modigliani, mang trong mình trái tim Florence và bóng dáng Venice, đã từ chối hiến Carpaccio và Bellini, thậm chí cả những đường nét gây hấn của Parmesan cho những sai khiến lúc đó. Trọng ý chứ không trọng từ, trọng nghĩa chứ không trọng nguyên tắc, đó là cái mà ông học được từ Nietzsche và Annunzio, Baudelaire hay Lautréamont. Chàng người Ý đã Pháp trước cả khi đặt chân tới thủ đô của nghệ thuật năm 1906.

Chuyển động đầu tiên, bức Nàng Do Thái (La Juive) năm 1908, đầy gợi cảm trong nỗi đau thống thiết, tranh còn ướt những vệt xanh của Picasso (khi ông này vẽ đè lên trước đó)*. Chuyển động tiếp, bức chân dung Juan Gris, lập thể theo một cách khác, hòa hợp những cách điệu tuyệt vời và đôi mắt đen.
Nàng Do Thái

Chuyển động cuối cùng, chân dung Max Jacob, người ta chưa bao giờ nắm bắt được người mẫu, tính hai mặt (double nature) của apache thế gian, hay một kiểu kabbalist converti, bị giằng xé giữa thánh đuờng Jerusalem và những khoái lạc trần gian.
Chân dung Max Jacob

Modigliani có một phong cách rất riêng, và uyển chuyển, nhất là ở những bức tranh cuối cùng, có lẽ là những bức tuyệt nhất.

Chủ nghĩa hiện đại đã định tặng ông một bữa tiệc phù hoa, nơi mà luật của cái mới không giấu nổi những sự phá sản của thế kỷ.

Ngoài Picasso và Matisse, ai khác có thể phản ứng nhanh đến thế với những cảnh báo của Appollinaire? Sự biến dần của tranh khỏa thân như một dấu hiệu của sự suy tàn nói chung. “Những nghệ sĩ trẻ bây giờ chả quan tâm đến Art khỏa thân, cái chính đáng hơn bất kỳ cái gì khác”.

Nếu bắt Appollinaire phải nói dối, thì những bức khỏa thân gắn với tên tuổi Modigliani kia chắc là đang chế nhạo tầng trời thứ 7, tầng của các họa sĩ vĩ đại nhất.
“Nu Couché au coussin Bleu”, 1916, sơn dầu trên canvas.

Không ủng hộ: (của Thomas Schlesser, nhà báo, nghiên cứu sử nghệ thuật):

Nào, giờ thì hãy mở to mắt ra một tí. Hãy xem chính tác phẩm của Amadeo đi, cũng chả phải khó chịu gì, nhưng những cái xung quanh nó thì sao. Rõ ràng, khi mà Kandinsky, Picasso, Mondriant, Klimt hay Boccioni đang đầy táo bạo, cuồng nhiệt, thì chàng họa sĩ này lại chứng tỏ một sự yếu đuối, ủy mị gần như bối rối.

Thờ ơ với Modigliani, không phải là khinh thường những tư chất cảm động nơi ông, mà đúng hơn là ghi nhận cái “lỗi không may mắn”. Ông mất ở tuổi 35. Ông có ít cơ hội để thể hiện tài năng. Cái thời đó, từ 1905 đến 1920, khi châu lục đang rung lên với sự phong phú về trí tuệ và thẩm mỹ, với những sáng tạo cuồng nhiệt. Khó mà thấy lại trong lịch sử. Có lẽ đó là một chu kỳ tinh hoa tuyệt vời duy nhất, những năm 1500-1520 qua đầu thế kỷ 20, toàn các thiên tài nghệ thuật (sự so sánh giữa hai giai đoạn này tốn khá nhiều giấy mực của giới phê bình ở châu Âu, khoảng cách 4 thế kỷ, đáng được phân tích kỹ càng).

Modigliani làm gì vào lúc nguyên tử được phát hiện, sự lan truyền tư tưởng Nietzsche, rồi chiến tranh thế giới, âm nhạc điện tử, những niềm hy vọng Mác-xít, những cạm bẫy độc tài, rồi tâm thần học sơ khai..? Vâng, những bức chân dung, những tranh khỏa thân, rất dễ thương, rất cảm động, rất bi ai… Ông ấy còn có khiếu đối với phong cách nguyên thủy nữa chứ! Vâng, những hình thể xinh đẹp, màu sắc hài hòa, nào nâu, nào hồng, nào xanh, thật tuyệt phải không? Người ta xem tranh ông, rồi ước ao trở thành người mẫu cho ông vẽ, rồi ra về với hình nộm của mình, với đôi mắt trống rỗng, cái cổ mảnh mai, đôi vai rũ xuống… Tuyệt nhỉ, nhưng thật buồn cười!
Tại sao các hướng dẫn ở trường đại học, các nghiên cứu sắc nét nhất, các khóa học ở các chuyên khoa… lại chỉ dành một vị trí phụ, một vị trí chiếu cố cho Modigliani? Bởi vì, đơn giản là ông ấy không phải ở tầm cao của thời đại mình! Một ví dụ nhé: cái vụ scandale vẻ vang của ông ấy, thật ngon lành phải không, Modi lẽ ra phải cảm ơn sự can thiệp của cảnh sát, và của gallery Berth Weill, nơi ông trưng ra những phụ nữ cởi truồng thấy cả lông mu, trong khi biết bao người đang ngã xuống chiến trường. Lúc đó Modi 33 tuổi và sự kiểm duyệt ấy thật lý tưởng để nuôi dưỡng hình ảnh của một nhà sáng tạo bị nguyền rủa (créateur maudit). Hãy xem trước đó Otto Dix làm gì, (chiến tranh, đó cũng là một sự nguyền rủa tàn bạo chả khác gì việc di cư đến Montparnasse), người Nga thì đang hỗn loạn trong cuộc cách mạng, Egon Schiele thì đang quay trong vòng xoáy địa ngục ở Vienne, thế mà bạn lại cho rằng: cái ông Modigliani này làm xúc động quá, rồi nào là họa sĩ lớn nữa! Họa sĩ dành cho các salon sang trọng của những người có gu, hay là cho các cuộc triển lãm thành công ạ?

(dịch và đăng trên Soi.today ngày 2/7/2013)

Sưu tầm từ nguồn khác:

1. Là hai họa sĩ cùng thời, Picasso lớn hơn Modi 3 tuổi. Picasso ưa cạnh tranh nếu không muốn dùng từ kiêu ngạo, ông luôn hăng hái thể hiện mình là số 1 của Ecole de Paris, trong khi Modigliani thì tính châm biếm chua cay hơn. (Ở đoạn đầu phim cùng tên, Modi hỏi Picasso: “Ông làm tình với cái khối lập thể thế nào? ‘(How do you make love to a cube?). Picasso thì luôn sống trong vinh quang, giàu sang, sống lâu, còn Modigliani thì thường bị ngèo khó và bệnh tật đeo đuổi, và chết trẻ. Mặc dù có sự khâm phục ngầm đối với Modigliani, nhưng Picasso cũng khoái khích bác và hay lôi Modi vào cuộc. Cả hai họa sĩ cũng đã từng vẽ nhau. Cả hai cũng đều có mối quan tâm với nghệ thuật Phi châu và có những ảnh hưởng trong các tác phẩm của mình. Đã có phim về chủ đề này, phim tên “Modigliani” (2004). Theo câu chuyện trong phim, vào buổi tối khi Modi chết, Picasso gửi lời chia buồn với Jeanne (nguời tình của Modi) và cô nói với Picasso rằng: khi nào ông chết, tên của Modi sẽ ở trên miệng ông. Và ở cảnh kết phim có ghi rằng đó là sự thực: khi Picasso chết, ông đã thì thào gọi tên Modigliani! (Các bạn có thể xem phim ở đây)

2. Modigliani không coi là mình bất hạnh. Bạn ông, Chaim Soutine từng hỏi: “Anh có phải chịu nỗi bất hạnh lớn lao nào trong đời không” thì Modigliani trả lời “không”. Còn theo lời kể của nhà điêu khắc Jacques Lipchitz, Amedeo Modigliani đã từng nói rằng chàng ước muốn “một đời sống ngắn ngủi nhưng mãnh liệt”.

Không thành công trong việc bán tranh lúc còn sống, chàng họa sĩ thường đùa rằng: “Tôi chỉ có mỗi một khách hàng mà ông ấy lại mù”. Người bị ám chỉ ở đây là nhà buôn tranh Père Angely.

Sau khi Modigliani chết, có hai đám tang đã được tổ chức, đám thứ nhất do một tu sĩ Do Thái cầu kinh và nhà danh họa bạc mệnh được chôn cất trong nghĩa trang Père Lachaise (Paris), còn đám thứ hai, đơn giản hơn, của người vợ xấu số, chôn bên ngoài thành Paris. Gia đình Hébuterne phản đối cuộc hôn nhân của con gái mình với một người Do Thái, nên đã không cho hai kẻ yêu nhau được an táng cạnh nhau. Tới năm 1923, người anh cả của họa sĩ Amedeo Modigliani là Thượng nghị sĩ Emmanuele Modigliani đã thuyết phục được gia đình Hébuterne cho cải táng di cốt của Jeanne và chôn bên cạnh người chồng bạc mệnh

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

Francis Bacon trong con mắt các nhà văn

15/10/2020 – Nhân dịp triển lãm Francis Bacon tại Trung tâm Pompidou hồi đầu năm, nhà văn-nhà phê bình nghệ thuật Frank Maubert có cuộc trò chuyện với kênh France-Culture về cuộc gặp gỡ với danh hoạ Francis Bacon.

Xin chào Frank Maubert, cảm ơn đã đến với chương trình. Anh đã viết về những cuộc trò chuyện với Bacon trong một cuốn sách nhỏ được nhà xuất bản Gallimard ấn hành.Ông ấy ưa thích nói về những chủ đề gì ?

F.M : Thực sự là Bacon thích nói về mọi thứ. Tôi khá ngạc nhiên ngay những lần đầu gặp gỡ, ông ấy nói về mọi thứ một cách rất đơn giản. Điều tôi rất phục ở ông ấy là dù thế nào ông ấy cũng rất yêu cuộc sống. Và ông hầu như là tránh nói về tranh pháo.

– Các anh đã nói chuyện về mọi thứ và cùng trải nghiệm một số thứ, thậm chí cả đi chơi, ăn nhậu cùng nhau.. Ông ấy xem ra là một người rất thích thưởng thức cuộc sống (un bon-vivant). Người ta hay nhắc đến sự nghiện rượu của ông ấy. Chắc ông ấy cũng từng tâm sự với anh về điều đó.. Có thể đó chỉ là kiểu như một món ưa thích hay có thể do một sự phiền muộn nào đó trong cuộc sống ?

F.M : Ồ không, chắc không phải do phiền muộn đâu. Nếu có phiền muộn thì rượu đã giúp ông ấy quên đi rồi còn gì. Nhất là khi vẽ ông ấy không uống rượu đâu, ông ấy bảo khi vẽ ông thường uống nước suối cơ, rượu chả giúp gì sất.

– Anh tin thế chứ ?

F.M : Vâng, khi ông ấy nói vậy thì tôi cũng cố tin (cười)

– Anh có nói là hai người đã có nhiều thời gian cùng nhau, nhưng hình như anh chưa bao giờ tận mắt thấy ông ấy vẽ phải không ?

F.M : Tôi tin rằng có rất ít người thực sự chứng kiến lúc ông ấy sáng tác. Thậm chí đôi khi tôi cũng có những ý nghĩ khùng khùng là chả hiểu có phải chính ông ấy đã làm ra các bức họa đó không nữa (cười). Đùa thế chứ tất nhiên là ông ấy rồi. Vì có một họa sĩ Maroc tên là Yacoubi đã tận mắt thấy ông ấy vẽ, và cũng nhiều người nói với tôi về điều đó.

– Francis Bacon – một họa sĩ không bao giờ cạn kiệt cảm xúc, như anh mô tả, đã từng nói: « dù gì thì người ta cũng không thể bàn về hội hoạ. Chả ích gì ! Nghệ thuật là một thứ luôn luôn dở dang ». Bacon cũng không thích người ta bàn luận về tranh của ông ấy. Ông ấy thường từ chối giải thích về tranh của mình. Phải chăng đó là khả năng duy nhất để nói về nghệ thuật của ông ấy ?

F.M : Duy nhất hay không thì tôi không biết. Nhưng có lần tôi đi gặp ông ấy với tư cách nhà báo để tìm hiểu một số điều mấu chốt trong hội hoạ của ông ấy. Ông ấy rất kiệm lời, bởi ông ấy cho rằng hội hoạ là một chốn bí ẩn và mỗi người đều tìm thấy ở đó một phần của mình, thế nên không phải ông ấy là người phải giải thích cái quái gì.

– Vì sao anh muốn gặp Bacon ? Anh đã từng nài nỉ để gặp ông ấy bằng được phải không ?

F.M : Lần đầu tiên tôi phát hiện một bức của Bacon, không phải ở một galerie hay bảo tàng mà là ở điện ảnh, trong một bộ phim đen-trắng ở Paris… Tôi đã thấy hình ảnh một người đàn ông khoả thân vặn vẹo dày vò.. Ngay khi nhìn thấy nó, tôi thực sự bị rung chuyển, và tôi muốn biết nhiều hơn, tôi tự nhủ tôi phải gặp người đã làm ra nó.
– Anh đã gặp ông ấy, và rồi hai người còn gặp nhau nhiều lần sau đó ?

F.M : Vâng, chúng tôi gặp nhau ở London, rồi Paris.. Ông ấy thường gọi cho tôi hàng ngày vào buổi sáng sớm khoảng 6h30. Tôi khá ngạc nhiên, thậm chí lúc đầu tôi còn nghĩ đó là một trò đùa..

– Bacon không phải là người đơn giản. Anh đã gặp ông ấy… Ông ấy vừa điên rồ vừa thiên tài nhỉ.

F.M : Đúng, đúng đấy, đó là một tính cách đa dạng. Ông ấy là người rất khó nắm bắt. Có thể nói đôi khi thậm chí là phi lý. Một họa sĩ phi lý vĩ đại..

– Một số nhà triết học cũng quan tâm tới ông ấy để tìm hiểu nhưng có vẻ ông ấy chả mặn mà gì. Riêng với anh, ông ấy đã tâm sự khá nhiều, đặc biệt là các cảm hứng sáng tác.. thậm chí cả những gì ông ấy đọc. Ông ấy đã nói với anh về những tác giả và những cuốn sách quan trọng với ông ấy ?

F.M : Ông ấy có nói về các tác giả khác nhau, trong đó khá nhiều nhà thơ. Bởi vì thơ là một sự cô đọng các ý tưởng cho ông ấy những loé sáng .. Nhưng không chỉ thế, không phải chỉ là cac tác giả lớn như Eliot hay Shakespeare, mà còn cả những hình ảnh trong phim, trong sách báo cũ .. được cảm nhận và diễn dịch theo cách riêng của ông ấy..

– Nhiều tác phẩm triển lãm kỳ này được sáng tác vào thập niên 70, không thể tìm các mối liên hệ trực tiếp giữa văn học và sáng tác của ông ấy. Có thể nói, có gì đó như là sự chuyển hoá ngôn ngữ viết thành hình ảnh trong nghệ thuật của ông ấy, được giải phóng thành các hình tượng ?

F.M : Đúng rồi, đó là một sự giải phóng.. đặc biệt ông ấy tìm kiếm những hình ảnh rất dữ dội trong những gì mà ông ấy có thể đọc.

Trích đoạn một cuộc phỏng vấn Bacon :
Francis Bacon :  » ừ tôi biết, tôi tạo ra nhữnh hình ảnh.. thế đấy.. những người khác có thể nói cái họ nghĩ về tranh tôi. Còn đối với tôi, khi vẽ xong thì tôi để đó và không nghĩ nữa ».
– Tôi thấy rằng một trong các bức chân dung ông vẽ Michel Leiris, người ta có thể nói ông phải cảm nhận sâu sắc về ông ấy thế nào mới ra được như vậy.
Francis Bacon : « Tôi hy vọng thế, tôi cũng không biết nữa. Thế đấy ! Nhưng tôi vui là anh đã nghĩ vậy. Này anh, tôi vẽ những bức tranh này cho chính tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ sống bằng tranh đâu. Tôi vẫn nghĩ sẽ cố gắng làm việc khác ».
– Tôi biết là ông đã huỷ khá nhiều bức họa.
– Francis Bacon : Ừ.. cũng kha khá..
– Ông là một hoạ sĩ rất khó tính và đòi hỏi cao với chính mình ?
– Francis Bacon : « Cần phải vậy .. mà anh biết đấy, trong hội họa, những người sáng tạo giỏi đều là những nhà phê bình rất ác. »

– Ông ấy huỷ tranh.. Ông ấy đã rất nghiêm khắc với bản thân, hay ít ra là với chính các sáng tác của mình.

F.M : Vâng, ông ấy huỷ khá nhiều tranh. Ông ấy cũng nói với tôi như vậy..

– Vì sao thế ?

F.M : Vì sao ư ? Bởi vì tôi nghĩ ông ấy có những suy nghĩ khá sâu về nghệ thuật, đặc biệt là hội hoạ.. Vào khoảng thập niên 20 khi thấy những bức tranh của Picasso, có gì đó đã xảy ra trong ông ấy, ông ấy nói muốn trở thành hoạ sĩ. Trước đó ông làm về nội thất…

– Dù sao ông ấy cũng đã được công nhận khá sớm, chứ không bị hắt hủi, bị lãng quên như nhiều họa sĩ đương thời khác..

F.M : Không, không giống như đời Vangogh đâu… dù sao cũng có khá nhiều điểm chung với Vangogh đấy nhé, chẳng hạn trong những chấm phá, trong cách vẽ.. cũng gần gần một vài hoạ sĩ khác nữa, nhưng nhìn chung cũng có khá nhiều nét Vangogh trong đó.

– Người ta từng bàn luận về những ảnh hưởng văn học trong các sáng tác của ông ấy và tự hỏi không hiểu có sự diễn dịch hình tượng trong tranh từ ảnh hưởng văn học qua những gì ông ấy đã đọc không, nhưng có một bức tranh mà sau này anh phát hiện trong xưởng vẽ của ông ấy, bức đó có cảm hứng trực tiếp từ thơ của Garcia Lorca về cái chết đúng không ?

F.M : Vâng, ông ấy có nói với tôi lúc đó. Ông ấy mời tôi tới xưởng vẽ, nói là xưởng chứ đó là một căn phòng nhỏ như nhiều căn phòng bình thường khác thôi. Ông ấy đang vẽ dở bức đó và định quay nó úp vào tường để tôi khỏi thấy. Thế là tôi hỏi luôn: cái gì thế ? Ông ấy bảo: .. à, đó là bài thơ của Garcia Lorca về cái chết của con bò tót. Cực kỳ dữ dội và kinh hoàng… Ông ấy nghiên cứu sự tàn bạo, ông ấy cho rằng cuộc sống rất tàn nhẫn và vẽ như thế là còn nhẹ hơn hiện thực rất nhiều…

– Đúng là chúng ta thấy các chủ đề trong tranh ông ấy về sự tàn bạo, về cơ thể con người, sự dễ tổn thương, về cái chết, và thân phận con người..

F.M : Đúng đấy, có thể tóm gọn lại là những thân phận con người… Hiển nhiên là vậy.

– Tôi không biết anh có sở hữu một bức Bacon ở nhà không..

F.M : Ồ, không không… (cười bối rối)

– Có thể là một bức chép lại hay affiche trong phòng khách chả hạn ?

F.M : Không, trước đây tôi có một bức trong nhà tắm.. (cười)

– Nếu như phải chọn một bức của Bacon, anh sẽ nói…

F.M : Có thể là một bức về Đóng đinh trên thập giá hay một bức về sóng biển ông ấy vẽ giai đoạn cuối, hay là một nhân vật kiểu chủ ngân hàng… nhưng dù gì thì nó cũng kể câu chuyện về sự khốc liệt của các bản thể, trong những trạng thái thất thần, cô đơn tuyệt vọng … Ngay cả khi ông ấy vẽ một con vật như con chó chả hạn ..

– Những khốc liệt thực tế đó trong đời sống đã tác động ông ấy .. Bacon cũng ảnh hưởng nhiều từ văn học, nhưng chính ông ấy cũng là nguồn cảm hứng cho các nhà văn. Vậy anh thấy gì ở ông ấy ? Có sự đồng điệu nào mà anh đã kết nối và phát triển cùng ông ấy ? Có vẻ cũng khá trầm và nặng phải không ?

F.M : Vâng, khá nặng đấy ! Không có sự thư giãn ở tranh của Bacon đâu, nhưng nó rất tuyệt vì có biết bao thứ mà ta có thể tưởng tượng, nó vừa vô lý vừa bí ẩn.. nó cho những khả năng mà mỗi người đều có thể thấy mình ở đâu đó…Mà không phải là chỉ tưởng tượng đâu. Cuộc sống riêng của ông ấy thậm chí còn tệ hơn cả những gì ông ấy vẽ nữa ý chứ, ít nhất cũng có 3 vụ tử tự kinh khủng của những người gần gũi thân cận nhất với ông ấy ..

– Vâng, như anh viết, ông ấy dễ vỡ, nhưng cũng cực kỳ lịch lãm và nồng hậu. Người ta cũng không thể tả ông ấy như yêu quái được 🙂

F.M : Tôi nghĩ rằng ông ấy có tính cách đa đạng, nhiều góc cạnh. Ông ấy hoàn toàn có thể là một người lịch lãm, tế nhị ở mặt này, và rồi bốc đồng, hung hăng ở một mặt khác.

Trích lời Bacon: « Tôi vẽ theo figuratif (phong cách biểu hình) bởi vì tôi chả quan tâm đến trừu tượng, và tôi nghĩ mục đích của hội họa không phải là để trang trí. Nên nhớ, nghệ thuật là nhân tạo. Ừ cũng có một khía cạnh trừu tượng nào đó, nhưng figuratif muốn đi xa hơn, bởi vì sau cùng thì trừu tượng chả có lý gì trong khi với figuratif ta luôn có lý do để bắt đầu và trở lại, trở lại với sự thật bằng cách đi vòng, một đường vòng lớn.. »

– Bacon đã đi một vòng lớn. Còn nhà văn Maubert thì từng kể về những tai nạn, sự tình cờ, tính ngẫu nhiên.. trong quá trình sáng tạo của ông ấy.

F.M : Điều đó rất quan trọng. Người ta đã nói nhiều về các sự kiện tình cờ, những tai nạn trong cuộc đời ông ấy. Ông ấy cũng là một tay chơi lớn đấy nhé. Ông ấy từng chơi sòng bài nơi mà phần nhiều là các ngẫu nhiên may rủi tình cờ, so với các trò khác..- Người ta có thể nói về tranh Bacon, về những góc tăm tối tàn bạo nơi con người. Ông ấy lột trần sự tàn bạo .. Có gì đó gần với Caravage ở mức độ căng thẳng, như ông ấy vẫn nói « chạm tới hệ thần kinh của nguời xem ».

Olivier-Giesbert : « Tôi rất phục Bacon, nhưng tôi nghĩ gần như là không thể nào mà yêu đuợc. Thật khủng khiếp khi phải thấy những gì trong tranh của Bacon..Tôi không biết có chịu được không. Tôi thích sống trong thế giới của Cézanne, có lẽ tôi thích sống trong những bức tranh bình yên hơn.. Chứ mà có một bức của Caravage hay Bacon trong nhà thì … kiểu như bắt buộc phải nghĩ về cái chết từng giây phút một ý. »

Nhà văn Yannick Haenel: « cái yếu tố kịch tính trong tranh của Caravage từ nền đen sẫm của thế kỷ 16, chúng ta thấy lại trong tranh Bacon, hoàn toàn cách biệt với tính lý tưởng hoá. Tôi nghĩ cả Caravage và Bacon đều căm ghét chủ nghĩa lý tưởng. Họ từ lâu đã hiểu thời Phục Hưng qua rồi, và sự hoà hợp của đời sống với trang trí chỉ là giả dối. Cả hai đều chống lại sự giả dối đó bằng hành động. Cơ thể thì trần trụi , bộ phận sinh dục phơi ra đó, tính khốc liệt tự nó mang sự liên kết xã hội.. Và họ vẽ điều đó chứ không phải là yêu thích điều đó. Họ không phải là những người đứng về phía thiện hay phía ác. Cũng như nhiều nghệ sĩ lớn khác, họ chứng kiến một cách mãnh liệt những gì diễn ra. »

Vẽ – đối với Bacon là một nhu cầu sống còn, như anh cũng đã nói: « Nghệ thuật là một tiếng thét để tuyên chiến với sự ngột ngạt. »

Bài hay quá nhưng dài nên tạm dịch các ý chính để lưu giữ. Bạn nào cần thì xem bản gốc ở đây nhé.

https://www.youtube.com/watch?v=fZTO3nK11ds

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

Tôi ngồi mẫu cho Picasso

Phải kể ra chuyện này cũng ngượng thật. Mà không thể tin nổi đó là tôi nhé. Chưa kể  là tôi đã không hề nằm phô ra cái kiểu như vậy. Trong hình nhìn tôi có vẻ không được tự nhiên lắm. Nói thẳng ra, trông như thằng pê đê !

Hồi đó tôi mới có 23 tuổi . Tôi sống giữa khu Mougins và Valbonne, ở nhà bố mẹ, những người Ý nhập cư . Hiển nhiên, tất cả mọi người trong khu đều biết danh Picasso. Người ta vẫn biết là đôi khi ông gặp đám thanh nữ ở chợ và mời họ làm mẫu cho ông vẽ. Tất nhiên là cũng có những người muốn thử xem sao. Hồi đó người ta thường gọi việc đó là “Picasting”. Tôi cũng quen một cô gái đã từng ngồi mẫu cho Picasso. Nói chung đa số là gái thôi. Rồi thế quái nào mà cuối cùng nó lại rơi vào tôi. Cần phải nói là tôi có hình thể của một vận động viên đấu vật. Hồi năm 1971 khi tôi còn là cậu nhóc, thể thao đã khá phổ biến rồi. Người ta tổ chức các trận bóng cho bọn trẻ ở những hội phường, ít bạo lực hơn, nhưng cũng không khác mấy trò của những thằng hề. Hồi đó tôi chả khoái gì bọn trẻ ranh. Mỗi khi nghe bọn chúng cười phá lên, tôi hay có cảm giác chúng giễu mình. Nói chung hồi đó tôi khá quậy.

Rồi, giờ lại còn Picasso nữa, khỉ thật, thôi được, tôi sẽ không từ chối. Ông ấy  hẹn tôi  trong xưởng vẽ  phía  sau nhà ông. Rất nhanh, tôi phải khỏa thân hoàn toàn và nằm dài ra. Và ông ấy vẽ. Thời gian bằng một điếu thuốc treo trên miệng ông. Khi người ta nói rằng ông ấy có 90 chiếc tẩu, tôi không tin. Hôm đó ông mặc quần soóc, áo kẻ carô, ánh mắt sắc nhọn, pha chút giễu cợt. Cũng có thể ông ấy giễu tôi thật.

Trước khi tôi về, ông vẽ khuôn mặt tôi. Có thể nói đó là sự pha trộn giữa đầu của một con người và một con vật. Một người bạn có hiểu biết về hội họa nói với tôi rằng đó là một lọai thú hoang. Khi về đến nhà, tôi hơi cảm thấy xấu hổ. Tôi không nói gì với bố mẹ . Ngồi mẫu khỏa thân lông lá như thế, dù là ngồi cho Picasso vẽ đi nữa, theo bố tôi thì cũng chả khác gì con điếm. Tôi giấu bức họa trong tờ l’Equipe, vì hồi đó bố tôi thường hay đọc tờ này.  Đó là trang mà người ta nói về Eddy Merckx, người  giành giải cuộc đua xe đạp vòng quanh nước Pháp lúc bấy giờ, và ở cuối trang có mẩu quảng cáo của Petrole Hahn. Tôi vẫn chưa quên cái số báo đó, rồi các bạn sẽ hiểu vì sao. Tôi đã giấu tờ báo đó trên nóc tủ quần áo. Nếu có thể giấu được cả cái tủ, chắc tôi cũng đã giấu luôn.

Picasso chết 2 năm sau đó và cha mẹ tôi cũng lần lượt ra đi, cứ như là họ hẹn nhau ấy. Đầu những năm 80, tôi cùng vợ dọn đến ở khu ngọai ô thành phố Nice. Chúng tôi sống trong một tòa tháp cùng với một con mèo. Một hôm tôi đi làm về và nhìn thấy tờ l’Equipe trong đống lộn xộn. Vợ tôi đã lót nó bên dưới thức ăn cho mèo. Chúng tôi vẫn thường đặt một tờ báo phía dưới như thế để thấm ẩm. Và hôm đó, con mèo của tôi đã ị một bãi lên ngay bức họa của Picasso.

Khi tôi kể lại câu chuyện này, ai cũng cho tôi là có vấn đề về thần kinh. Họ nói tôi bịa. Tôi không có bằng chứng, bức họa thì có lẽ lưu lạc đâu đó, nhưng tôi không thể biết nó ở đâu. Tôi gọi điện cho bảo tàng để hỏi. Họ nói với tôi là Picasso vẽ rất ít mẫu nam khỏa thân. Vẽ cặp đôi khỏa thân thì có, nhưng mẫu nam khỏa thân một mình thì rất hiếm.

Rồi một ngày, trên Internet, tình cờ tôi nhìn thấy một bức tranh. Lúc đầu tôi nghĩ đó là người khác. Nhưng thật lạ lùng, tôi nhận ra chính mình. Giống như một người bị bỏng nhìn lại mình trong gương lần đầu.  Nhận ra mình, nhưng bị biến dạng. Mà không chỉ khuôn mặt bị biến dạng đâu nhé. Nó trông cứ như một con gà bị banh ra… Hai bàn tay to như lá cọ, hai bàn chân như con voi… Kìa sao ông ta lại còn  bớt ngón chân của tôi đi nữa, lão già này… Bất chợt tôi thấy lo lắng. Rồi tôi đếm lại từng ngón chân mình,  tôi đủ 10 ngón chân mà… Nhưng cái khiến tôi thấy phiền lòng nhất chính là một cái chấm đen nho nhỏ. Đó là hậu môn của tôi ! Trời ạ, thề là tôi không hề giơ hậu môn  ra cho ông ấy  xem. “Nghệ sĩ” quái quỉ gì thế này, tôi chả chìa cái của nợ ấy ra cho ai xem bao giờ. Ngay cả khi đi  nội soi đại tràng, bác sĩ cũng phải van xin mấy lần tôi mới để cho khám một tí. Thế mà….

Sau này , tôi tìm lại được số tạp chí l’Equipe đó ở một hiệu sách cũ. Thỉnh thoảng tôi cũng mua tạp chí l’Equipe để đọc,  và tưởng tượng bức tranh vẫn ở đó.

(Tạp chí Mỹ thuật Pháp, tháng 3 năm 2014)

*Tác giả Jonathan Lambert là cây bút viết truyện hài của tạp chí Mỹ thuật Pháp.
Tranh: “Người đàn ông khỏa thân nằm” (L’homme nu couché), Picasso – 1971

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

Ai là khán giả ?

“Allô, anh có thể đi thay tôi chiều nay không ? Tôi có chút việc nên kẹt không đưa khách đi Grand Palais được…”

Khi từ Singapore trở về sau một công việc tình nguyện, tôi tìm ngay được một job không khó khăn gì. Với chút tiếng Hoa bập bõm kiểu « giọng Quan thoại” rất ấn tựơng trên bản tự giới thiệu, thế là tôi được nhận làm cho hội thảo của các nhóm tham quan bảo tàng có hướng dẫn. Những nét chính về tiểu sử và một vài thông tin trên mỗi tác phẩm là đủ để làm một chuyên gia roài . Tôi kể lể nào Rodin, Van Dongen, Monet… như những thằng ma cô vẫn làm để đổi lấy mấy cái phim con heo.

Trong thời gian diễn ra cuộc triển lãm về Valloton, tôi phải đi hướng dẫn một nhóm khách Trung Quốc. Có thể nói đó chả phải là những khách cao cấp gì. Không phải những kẻ nướng các đồng nhân dân tệ trong những cửa hàng của Louis Vuitton. Trong metro, tôi tranh thủ tìm tiểu sử nhóm Nabi. Xong, tôi biết đu đủ để làm họ mê hoặc. Tôi bắt đầu tour quen thuộc của mình: vào Paris, đi thăm Academy Julian, đi xem Vuillard. Nhóm khách nói chung có vẻ rất trật tự nghe tôi thuyết dẫn, trình bày, trừ một lão nhỏ con đầu hói bóng nhẫy. Lão ta ngắt lời tôi và chêm vào là Vallotton từng là học trò của Gustave Boulanger, nào là phương Đông có lẽ đã ảnh hưởng đến ông ta…
Im lặng.
Tôi điều chỉnh: “Vâng, có thể, có lẽ là…”
Mọi người ném cho tôi một cái nhìn đầy buộc tội. “Anh có thể kể cho chúng tôi chứ về điều đó chứ?” – tôi đọc được điều đó trong mắt đám khách.

Chúng tôi tiếp tục đi lướt qua những bức sơn dầu của họa sĩ và dừng lại ở bức La loge de theatre.
Tôi phân tích nhanh tác phẩm trong đầu, lèo lái giữa những cái đã rõ rành rành với sự tự do liên tưởng, rồi phán với một câu hỏi mở: “Đây, nhất là bức tranh này, nó đặt ra câu hỏi: ai là khán giả? Họ hay là chúng ta?

Vâng, nhưng cái mà tôi chưa nói – lão hói đầu rùa lại ngắt lời tôi , với một giọng rõ ghét – “rằng Vallotton là tác giả của hàng chục vở kịch; cũng có thể đó là một lúc mà ông ghé qua nhà hát.

Nhận xét này quẳng một sự mất tin tưởng hoàn toàn vào những bình luận của tôi. Tôi vẫn cố gắng nhã nhặn và tiếp tục công việc, nhưng cảm thấy họ không tôn trọng người hướng dẫn nữa. Thậm chí một số khách còn tách hẳn ra để bình luận những bức tranh ở cuối phòng triển lãm.

Cuối buổi dẫn khách, tôi bám gót lão hói đi vào toilette, đảm bảo cho không ai nhìn thấy. Tôi vỗ vai lão ta quay lại và tát cho lão ta một cái vào mặt. Lão ta trừng mắt nhìn tôi, năm ngón tay tôi in trên má lão như cái quạt màu hồng. Tôi quay gót và đi tới chỗ lấy áo khoác của mình. Khi tôi bước ra, nhóm khách đang la lối, tôi bị xốc nách bởi hai cảnh sát. Nên nhớ rằng Grand Palais cũng là trụ sở của cảnh sát nữa. Lạ thật, sao mà nghệ thuật với cảnh sát lại hay cùng chung mái nhà thế nhỉ.

Tôi giả mặt ngơ ngác: Gì thế này? Sao lại thế? Sao lại tôi?… Anh nói quái gì thế? Bằng chứng đâu?” . Một nhân viên an ninh được gọi tới. Và thế là hết!

”Bức tranh này đặt câu hỏi: ai là khán giả? Họ hay chúng ta?” Giờ thì tôi đã có câu trả lời. Khán giả thực thụ, đó chính là gã nhân viên an ninh ngồi dí mắt cả ngày trên màn hình kiểm soát.

(dịch từ Tạp chí Mỹ thuật Pháp – tháng 1 /2014)
*Jonathan Lambert là cây bút chuyên viết chuyện hài về các tác phẩm nghệ thuật
* Tác phẩm “La loge de theatre

Trong khi trường phái Ấn tượng dùng ánh sáng và sự tách màu một cách khoa học để thể hiện ám ảnh về hình, thì những họa sĩ theo phái Nabis lại thích làm việc dựa theo phương cách nhiều tính chủ quan hơn. Vallotton – một thành viên của phái này – thường tránh khai thác những khía cạnh tự nhiên về nguồn và hướng (của ánh sáng), về đổ bóng, hay về những sự đa dạng (về ánh sáng) có liên quan đến giờ giấc và mùa…

Không phải ánh sáng là một yếu tố không mấy quan trọng đối với Valloton, nhưng nó được ông xem xét một cách tự do hơn, nội tại hơn.

Nên nhớ là họa sĩ đã từng tìm cách ghi lại sự bức xạ của mặt trời, sự phát và thu ánh sáng đơn: ví dụ như ánh sáng của những không gian bên trong nhà, ánh sáng nhân tạo của điện hay đèn dầu, không khí hội đêm, tương phản sáng-tối.

Bức tranh “La loge de theatre” vẽ năm 1909 là một cảnh tập trung vào khuôn mặt của hai khán giả . Một là nhân vật nam chỉ được thấy từ mũi trở lên, hai là nhân vật nữ với chiếc mũ có vành khá rộng. Không gian bị cắt ngang bởi một đường biên hơi xiên của cái ban công màu vàng rực ngay trước lô ngồi chìm trong bóng tối, tạo ra một hiệu ứng tương phản khá bí ẩn. Vallotton thêm vào đó một điểm sáng: bàn tay đeo găng của nhân vật nữ đổ bóng xuống nếp gấp của bức tường vàng. Ở đây họa sĩ đã tạo đuợc một sức nặng mơ hồ, siêu hình, từ một chủ đề khá phổ thông.


Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly