Gauguin: Ảo ảnh sau bài thuyết giảng- bí ẩn và đầy hình tượng.

Như một đàn ngỗng trắng, những chiếc mũ vải của các thôn nữ viền bóng đầy đặn trên nền đỏ rực của quang cảnh. Một thân cây cong queo ngăn cách họ với hai đấu sĩ chân trần. Chiếc áo choàng ôm lấy thân hình mảnh khảnh, đôi cánh gắn sau lưng như tiết lộ họ thuộc hai giáo dân thiểu số. Đối diện, bên trái, một chú bò non đang bước uyển chuyển. Bức tranh có tựa đề Ảo ảnh sau bài thuyết giảng hay Cuộc đấu của Jacob với thiên thần. Gauguin vẽ vào tháng 8-9 năm 1888 trong lần lưu trú thứ hai ở Pont-Aven. Trốn đi, hãy trốn ở đó …

Sinh ở Paris, Paul Gauguin (1848-1903) luôn ước thoát khỏi đó. Ngay từ khi ở Lima với người chú quý tộc, ông đã lưu giữ những ký ức kỳ lạ và tuyệt vời. Rồi với tư cách thuỷ thủ hàng hải, ông đi vòng quanh thế giới. Năm 1886, ông lưu trú lần đầu tại Pont-Aven. Bretagne là một vùng có phong cảnh khắc khổ và nguyên sơ, cuộc sống còn khá rẻ, một vùng đất huyền thoại thu hút các nghệ sĩ. « Tôi yêu Bretagne, » ông viết – tôi tìm thấy ở đó sự hoang sơ, tính nguyên thủy ». Sau thời gian lưu trú tại Martinique năm 1887, nơi bảng màu của ông ngập tràn sắc màu rực rỡ, Gauguin trở lại Pont-Aven vào năm sau đó.


Để tách tôn giáo khỏi thực tế, Gauguin đã vẽ một nền đỏ sậm. Một màu đỏ mộng mị, màu đỏ huyền bí xóa bỏ phối cảnh và đưa chúng ta đến với siêu nhiên.

Ảo ảnh sau buổi thuyết giảng thể hiện phong cách mới của ông. Gặp gỡ ở Bretagne, Émile Bernard đã động viên khi ông đang từ giã những mảnh ghép cuối cùng của phái Ấn tượng. Trong bức Những thôn nữ Breton trên đồng cỏ, có vẻ như có trước bức La Vision không lâu, trong sự kết hợp với Louis Anquetin, ông đã mở đường cho cái sau này được gọi là phong cách tổng hợp và thuyết nhân bản. Thuật tráng men, phổ hình, kính màu, khắc gỗ Nhật Bản là nguồn gốc của bước phát triển này. Từ đây, Gauguin xử lý màu sắc trên các mặt phẳng, phác hình bằng những đường liền mạch xóa bỏ phối cảnh. Trong khi chủ nghĩa nguyên sơ của Bernard đứng vững trên mặt đất, rắn rỏi và phàm tục, thì Gauguin theo bản năng hướng về tôn giáo, bí ẩn và đầy hình tượng.

Albert Aurier không nhầm, người đã dành một bài dài năm 1891 về chủ nghĩa biểu tượng trong hội họa cho bức Vision après le sermon. Isabelle Morin Loutrel, người phụ trách tại bảo tàng Orsay, đồng giám tuyển của triển lãm Beyond the Stars, cho biết: « Aurier đã coi tác phẩm này như biểu tượng của chủ nghĩa tượng trưng. » Gauguin vẽ một mặt hiện thực, mặt khác là viễn cảnh cuộc đấu tranh của Jacob với thiên thần, trong một bối cảnh tinh thần. Nhu cầu tâm linh xuyên suốt khung cảnh như trong mơ này. Trong một bức thư gửi Van Gogh, họa sĩ giải thích rằng «cảnh quan và cuộc đấu tranh chỉ tồn tại trong tâm trí khi người ta cầu nguyện sau bài thuyết giảng« , ở đó có sự tương phản và độ vênh giữa tập hợp tự nhiên và cảnh tượng «phi tự nhiên».


Kinh thánh kể rằng Jacob bị trật khớp hông trong cuộc vật lộn với vị khách bí ẩn ban đêm. Gauguin làm phong phú thêm tầm nhìn của mình với việc quan sát trực tiếp các đô vật trẻ Breton.

Aurier cũng mô tả bức tranh: “Xa xa, trên một ngọn đồi với đất nền đỏ son hiện ra hoành tráng, nơi diễn ra cuộc chiến trong Kinh thánh của Jacob với thiên thần. Trong khi hai người khổng lồ huyền thoại, mà khoảng cách biến họ thành tí hon, chiến đấu trong cuộc chiến dữ dội của mình, những người phụ nữ đứng nhìn […]. Họ tỏ thái độ tôn trọng và những khuôn mặt biểu cảm của tạo hóa đang đơn giản lắng nghe câu truyện cổ tích phi thường […]

Vẻ đẹp mộc mạc của những phụ nữ thôn quê Breton, những trang phục tuyệt vời của họ trở thành một trong những họa tiết yêu thích của họa sĩ ở Pont-Aven, khi ông đã mệt mỏi với sự màu mè của đô thị. Gauguin nói rằng ông đã đạt được trong tác phẩm này « tính mộc mạc đồng quê và thành tín tuyệt vời« . Sự thô ráp của khuôn mặt làm tăng hiệu ứng bí ẩn của cảnh, trong con mắt của những người thành tín.

Trích từ kinh Sáng Thế, chủ đề thường được các nghệ sĩ thể hiện từ thời trung cổ. Gauguin có lẽ đề cập đến bức tranh lớn của Delacroix trong nhà thờ Saint-Sulpice. Nhưng nó cũng bao hàm các đấu vật sumo của Hokusai và nhiều điều ở Bretagne. Cuộc đấu truyền thống của người Breton đã truyền cho ông cảm hứng vẽ một bức tranh vài tháng trước đó.

Bức tranh đã châm ngòi cho một cuộc chiến khác, một cuộc bút chiến. « Émile Bernard trách Gauguin đã bắt chước phong cách và bố cục của bức Những người phụ nữ Breton trên đồng cỏ » – Claire Bernardi, người phụ trách tại Musée d’Orsay, giải thích. “Càng rời xa phong cách tổng hợp, ông ấy càng có vẻ gay gắt với Gauguin, thậm chí tuyên bố đã phát minh ra phong cách này, và chỉ trích dẫn bức La Vision apres le sermon. Bài báo của Aurier khiến ông nổi giận. Gauguin đã định dâng bức tranh của mình cho nhà thờ Pont-Aven, nhưng sau đó ông lại mang đến nhà thờ làng Nizon. « Tôi đã vẽ một bức tranh cho nhà thờ, tự nhiên nó bị từ chối, » ông ngắn gọn. Sự táo bạo và tính thần bí với màu sắc của lửa khi đó, « dĩ nhiên », không thể chấp nhận được. Nhất là trong một nhà thờ …

dịch từ Connaissance des Arts

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ :


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

Munch: Nghệ thuật là niềm khát vọng kết tinh của con Người.

Edvard Munch (1863-1944) là một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất Bắc Âu. Giữa chủ nghĩa biểu tượng đang trào lưu lúc đó và chủ nghĩa biểu hiện sơ khai, tác giả của kiệt tác « Tiếng thét » (Le cri) là một họa sĩ của tâm hồn và cảm xúc. Chủ nghĩa bi quan nơi ông cũng không xa triết học của Arthur Schopenhauer, Friedrich Nietzsche, cũng như thơ của Mallarmé. Trong các tác phẩm của mình, ông tiếp cận chủ đề về cái chết, sự hoảng sợ, nỗi đau.. một cách trữ tình hơn là hiện thực. Trong không khí của cái bị gọi là « sự suy đồi cuối thế kỷ », Munch đã sáng tác một tác phẩm có tính tiểu sử sâu sắc và là một trong những bức độc đáo nhất của phong trào biểu tượng.
Ông nói: « Nghệ thuật là niềm khát vọng kết tinh của con Người. »

Edvard Munch ra đời tại Oslo. Ông được đặt tên Christiania cho tới năm 1925. Bố ông là một bác sĩ quân y và gia đình nói chung khá giả. Tuy nhiên, từ nhỏ Edward đã phải đối mặt với cái chết của mẹ và một người chị, nên tính cách ông khá yếu đuối và hay lo âu bất an. Ông được một bà dì nuôi dạy, người đã khuyến khích ông phát triển tiềm năng hội họa của mình.

Niềm khát khao trở thành họa sĩ lớn dần, ông bắt đầu theo học vẽ tại Học viện Hoàng gia, sau khi từ chối khoá học kỹ sư . Năm 20 tuổi, ông đi du lịch châu Âu, đến Berlin, Paris.. nhờ có học bổng. Chính tại thủ đô nước Pháp, ông đã biết đến các họa sĩ tiền-ấn-tượng, đặc biệt là các tác phẩm của Paul Gauguin và Vincent Vangogh.

Trở về Na Uy, Munch thường lui tới các chốn phóng túng và giao thiệp với những người theo chủ nghĩa vô chính phủ. Cá tính bất an đẩy ông khám phá các chủ đề hỗn tạp và quái dị. Ông đã chịu các cơn ảo giác, sự ghen tuông quá đà, rồi vẽ một bức tranh có tên « Đứa trẻ bệnh tật » (L’enfant malade – 1885). Ngày thứ hai tại Paris, ông nhận tin cha mất, điều khiến tinh thần ông một lần nữa bị đảo lộn.

Munch là một họa sĩ của cảm xúc nhưng cũng rất ma mị. Các chủ đề của ông thường dò vào ngóc ngách tăm tối nhất trong tâm lý con người, nơi những hoảng sợ, những ám ảnh, những đau đớn .. ẩn trốn. Những chủ đề của ông thuờng đến từ những suy tư tự vấn về sự tồn tại của chính bản thân. Mỗi tác phẩm đều thấm đẫm một tâm lý căng thẳng trong im lặng. Các triển lãm của ông khiến công chúng bối rối.

Càng như vậy thì ông càng nổi tiếng, nhất là ở Đức. Ở Berlin và Paris, Munch cũng phát triển tài hoa trong mảng chạm khắc và in khắc gỗ. Nhưng cái chết tiếp tục không buông tha ông. Năm 1895, ông lại mất một người anh trai  và một người em gái thì phải nhập viện tâm thần. Ông cũng không hạnh phúc trong các mối tình của mình. Ông từng có một mối tình khá say mê với một phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc – Tulla Larsen. Sau khi chia tay, ông rơi vào trầm cảm.

Trong thời kỳ chiến tranh thế giới, Munch sống không xa Oslo. Ông mua một căn nhà ở Skoyen,  từ đó trở thành nơi ở và xưởng vẽ của ông.  Trong không gian của riêng mình, Munch để tâm vẽ rất nhiều tranh phong cảnh.. Sức khoẻ yếu dần, và thị lực của ông bị rối loạn, rồi Đức quốc xã xâm chiến Na Uy và nhiều nguồn tin cho rằng ông bị chúng sát hại. Ông mất năm 1944, sau khi hoàn thành tác phẩm về thành phố Oslo.

Tác phẩm bất hủ : Tiếng thét (1893-1917).

Munch đã thực hiện khoảng 5 phiên bản về chủ đề sự hoảng loạn đó. Lấy cảm hứng từ một lần đang đi dạo, họa sĩ trình làng một nhân vật trông như xác ướp với hai tay bịt tai. Ông ta đang tìm cách thoát khỏi một tiếng kêu không thể chịu đựng nổi nữa ? Ông ta vừa là nhân vật chính vừa là nạn nhân vô danh của một cảnh khủng khiếp. Bầu trời thì đỏ quạch và dông bão, có lẽ cảm hứng từ một hiện tượng khoa học thực tế: tro bụi bay tung lên không trung từ một vụ phun trào núi lửa ở Indonesia, dội tới tận những vùng bắc Âu. Đó là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật, được khắp nơi  diễn dịch và bắt chước.

Munch từng tâm sự về cảm xúc sáng tác bức họa nổi tiếng này: « Lúc đó tôi đi dạo với hai người bạn, mặt trời đang lặn, bỗng nhiên bầu trời chuyển sang đỏ quạch như máu, tôi dừng lại, cảm thấy kiệt sức, tôi vịn vào thành cầu .. nó như có máu và những lưỡi lửa phủ lên mặt vịnh đen xẫm của thành phố.. Các bạn tôi vẫn đi, còn tôi dừng lại, run lên vì sợ hãi… Tôi nghe như có một tiếng kêu thất kinh xuyên thấu vũ trụ.. »

Ma cà rồng (Vampire – 1893)

Bức tranh về người đàn bà màu đỏ không loại trừ các yếu tố gợi tình, nhưng người đàn bà hiện ra ở đó trong tư thế của một kẻ cầm chịch nguy hiểm và tàn nhẫn. Làn tóc xõa ra phủ lên người tình và  cô ta bắt đầu nhấm nháp một nụ hôn chết chóc. Trong khi thể hiện người đàn bà đáng gờm với mái tóc xõa, Munch cho thấy đó chỉ là một cảnh riêng tư. Cặp đôi đồng nhất trong một dạng trói buộc nhau, một kiểu trốn tránh báo trước số phận thảm khốc.

Chân dung tự hoạ, giữa đồng hồ và giường (1940 – 1943)

Edvard Munch đã thực hiện khá nhiều bức chân dung tự họa trong suốt chặng đường sự nghiệp của mình. Trong một bức vẽ muộn sau này, hoạ sĩ tự thể hiện mình như một tù nhân của thời gian, bị mắc kẹt giữa các giờ đồng hồ trôi đi một cách vô vọng và chiếc giường (nơi sinh và nơi chết). Già nua và cô đơn, bị đông cứng trong một sự bất động chết chóc. Mặc dù xuởng vẽ khá sáng đèn và đầy tranh (biểu tượng của đời nghệ sĩ), bóng cây thập tự in xậm xuống nền dưới chân họa sĩ, như một tuyên bố về cái chết của riêng ông.

dịch từ tạp chí BeauxArts, số 450.

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

Paul Delvaux- những giấc mộng bí ẩn giữa cổ điển và hiện đại

Paul Delvaux thuộc số ít các họa sĩ nổi tiếng của Bỉ được các nhà sưu tập tranh trong và ngoài nước tìm kiếm. Dù thị trường nghệ thuật Bỉ cũng khá sôi động, Delvaux chưa bao giờ tìm cách bán tranh. Ít nhất, đó cũng không phải là việc ưu tiên của ông. Ông đã giữ hầu như tất cả các tác phẩm và chờ khá lâu trước khi được chú ý đến vào thập niên 60. Năm 1967, với sự ra đi bất ngờ của Magritte, chính phủ nhận ra họ đã đánh giá tài năng của nghệ sĩ siêu thực khá muộn, liền quay sang chăm sóc Paul Delvaux bằng cách tổ chức các cuộc triển lãm cho ông ở nước ngoài. Nhờ sự hỗ trợ chính thức này, Paul Delvaux dần hút được danh tiếng quốc tế. Mặc dù chưa đạt được đỉnh cao vào thời đó, nhưng Delvaux đã kịp trở thành một họa sĩ không còn dễ mua nữa. Ngày 6/4/1967, Pénélope (một bức khổ 120 x 176cm) vẽ năm 1946 đã được định giá 9250 đô la tại nhà Parke-Bernet ở New York, trong khi bức La ville endormie (Thành phố mơ màng) – vẽ năm 1938, khổ 135 x 170 cm, được bán với giá 32000 bảng Anh tại nhà Sotheby’s ở London ngày 10/12/1969. Tác phẩm La légende égyptienne (Huyền thoại Ai Cập – 1953) được bán với giá 11500 bảng, sau đó hơn 4 năm được bán lại với giá gấp 3 (450.000 franc Pháp) tại Paris.
Danh tiếng của Paul Delvaux bắt đầu thăng hoa vào đầu thập niên 70 và kéo dài cho tới tận những năm 90. Tháng 5/1991 nhà Christies ở New York đã mua lại bức La ville endormie với giá 1 triệu 250 ngàn đô la.
La ville endormie – 1938


Delvaux không vẽ nhiều (chỉ khoảng 400 bức), do ông thường vẽ tranh khổ lớn và vẽ rất tỉ mỉ. Các nhà phê bình nghệ thuật cho rằng những sáng tác của Delvaux giai đoạn 1936-1950 là những tác phẩm quan trọng nhất, trong số đó khoảng 50 bức là tuyệt tác.
Những chủ đề trở đi trở lại trong tranh ông thường là: khoả thân nữ, kiến trúc cổ, tàu hoả, nhà ga.. Các tác phẩm của Delvaux có sự kết hợp ma mị giữa phong cách cổ điển và hiện đại, như một người bạn từng tả Paul « một người luôn đắm chìm trong những giấc mộng bí ẩn của riêng ông ». Paul Delvaux tâm sự: « đối với tôi, vẽ là một cuộc phiêu lưu khác. Sáng tác tranh là một ngiên cứu về sự cân bằng giữa không gian đa chiều, kết nối với nhau bởi những sợi dây vô hình ».
Dù chưa bao giờ nhận mình thuộc phái siêu thực, và được đánh giá là một họa sĩ nhiều chất thơ, nhưng Paul Delvaux vẫn được xếp vào dòng tranh siêu thực cùng Magritte René.
(nguồn: Arts Antiques Auctions hors series)
Bảo tàng Paul Delvaux chính thức được mở năm 1982. Do dịch bệnh Covid, bảo tàng hiện đóng cửa và sẽ mở lại từ 2/4/2022.

Những điều có thể bạn chưa biết về Marc Chagall.

1) Lớn lên trong một thế giới không có hội họa
Không thể nói là Chagall đã thấm đẫm trong thế giới hội hoạ ngay từ nhỏ. Sinh ở Vitebsk (Biélorussie) năm 1887 trong một gia đình Do thái truyền thống. Thời đó, vùng giữa Ba Lan và tây Nga, dòng đạo này bị cấm triệt để. Nhà Chagall lúc đó toàn những bức tường trống trơn..
Chagall lúc đó tuổi thiếu niên, bất chấp sự miễn cưỡng của gia đình, đã học vẽ trong xưởng của Yuri Pen (cũng là thầy của Ossip Zadkine và El Lissitzky), trước khi hoàn thành khóa đào tạo của mình với Léon Bakst ở Saint Petersburg vào những năm 1900. Cũng không có nghĩa là tuổi thơ không ghi dấu ấn trong nghệ thuật của ông: văn hóa dân gian Do Thái, âm nhạc Yiddish và kiến ​​trúc Vitbesk hiện diện khắp nơi trong các tác phẩm của Chagall.

2) Ở Paris, ông khoả thân khi vẽ…
Chả phải điên rồ hay khiêu khích gì, mà thực tế nó phải vậy. Giống nhiều đồng hương của mình, Chagall dành chiến thắng ở Paris với một bức lập thể nâu-vàng. Đến Pháp năm 1910 ông tới ở Laruche, nơi cùng với các đồng nghiệp là Amedeo Modigliani, Jacques Lipchitz và Chaïm Soutine, ông đã khuấy động « trường phái Paris » nổi tiếng. Chagall thậm chí còn tìm thấy sự hỗ trợ quan trọng ở Guillaume Apollinaire và thậm chí cả ở Blaise Cendrars. Nhưng « cơm áo không đùa với khách thơ » và gã nhập cư Chagall đã phải đối mặt với cuộc sống du mục. Nhịn ăn thường xuyên, Chagall không muốn tốn phí giặt là quần áo và đó là lý do ông hay khoả thân khi vẽ: để không làm vấy bẩn vài bộ quần áo trong tủ quần áo héo hon của mình.

3) Là giáo sư ở Vitebsk, nhưng ông bị Malevitch tiếm quyền.
Sau chuyến thăm Đức từ năm 1913 đến 1914, chiến tranh buộc Chagall phải trở về Nga. Lúc đầu nhiệt tình, ông coi cuộc Cách mạng năm 1917 là một cơ hội để cải cách việc giảng dạy nghệ thuật. Được bổ nhiệm làm Ủy viên Mỹ thuật vào năm 1918, ông thành lập một trường nghệ thuật ở Vitebsk. Để xây dựng một phương pháp sư phạm quanh các xưởng vẽ tự do, ông đã mời các học giả El Lissitzky và Kazimir Malévitch làm giáo sư nhưng sau đã hối hận. Sự trừu tượng của cả hai nhanh chóng được ưu tiên hơn phong cách Chagall, quá đậm các tham chiếu tôn giáo để có được sự ưu ái của các nhà chức trách. Và thế là, Chagall bị gạt ra và buộc phải từ chức để nhường chỗ cho Malevitch, người trở thành lãnh đạo trường từ năm 1922. Chagall không chần chừ đã quay lại Paris luôn, nhưng bản thân Malevitch sau đó cũng bị chế độ Xô Viết gạt ra ngoài lề.

4) Suýt thoát khỏi Shoah
Khi cộng đồng của ông ở Vitebsk bị cô lập dưới thời Sa hoàng, Marc Chagall nhận thức rõ rằng rất khó để trở thành một người Do Thái ở châu Âu thế kỷ XX. Việc Hitler lên nắm quyền ở Đức vào năm 1933 đã làm dấy lên một mối đe dọa rõ ràng hơn nhiều. Họa sĩ tố cáo sự đàn áp người Do Thái của Đức quốc xã bằng cách liên kết cộng đồng của mình với hình tượng Chúa Kitô (qua bức La Crucifixion blanche, 1938). Cuộc đình chiến của Pétain, và sự đầu hàng Hitler đã khiến nhiều người Do Thái ở Pháp buộc phải kiếm giấy tờ giả hoặc giấy chứng nhận rửa tội, nhưng Chagall đã từ chối làm như vậy, do lòng tự trọng cao. Bị bắt vào mùa xuân năm 1941, ông nợ ơn cứu mạng của một nhà báo Mỹ dũng cảm Varian Fry, người tổ chức đưa các nghệ sĩ và trí thức sang Mỹ. Tên của Chagall chỉ được thêm vào danh sách 2.000 cái tên vào phút chót, nhờ sự năn nỉ của Alfred H. Barr, giám đốc đầu tiên của MOMA tại New York.

5) Từng dùng nghệ thuật của mình cho sự minh họa
Từ Manet đến Matisse, nhiều họa sĩ đã thử sức với lĩnh vực minh họa. Khi ở Berlin năm 1922, Chagall đã học về chạm khắc. Nhạy cảm với màu sắc, ông thực hiện những bức hoạ kiểu trẻ con với sự hài hước tinh tế. Ông muốn để chúng đối thoại với các văn bản, được rút ra từ các tác phẩm kinh điển và văn học đương đại. Trong số những cuốn sách đẹp nhất do Chagall minh họa, có Những linh hồn chết của Gogol năm 1948 và Ngụ ngôn La Fontaine năm 1952, cả hai đều là sở hữu của nhà sưu tập Ambroise Vollard. Nhưng chính nhà xuất bản Tériade đã mang đến cho ông sự hợp tác tuyệt vời nhất, với năm đơn đặt hàng từ năm 1948 đến năm 1967, trong đó cuốn Kinh Thánh, xuất bản năm 1956, chắc chắn là một trong những kiệt tác của họa sĩ.

6) Huyền bí hơn cả tôn giáo, hành trình tâm linh của Chagall khá phức tạp
Chagall rất gắn bó với Do Thái giáo mặc dù ông tách khỏi sự nghiêm khắc tôn giáo của gia đình mình. Quan sát các nghi thức Công giáo và Chính thống giáo, cảm động với những bức họa Kitô giáo, sự liên hệ của ông với thần thánh không bao giờ giáo điều, nó còn thần bí hơn cả tôn giáo. Là một người đam mê nhập môn, Chagall đã tham gia Hội Tam điểm. Tại Paris, ông được Apollinaire giảng về thuật giả kim và các khoa học huyền bí và muốn hoàn thiện Do Thái giáo của mình qua phái kabbalistic bí ẩn. Cuối cùng, nghệ sĩ bắt đầu quan tâm đến các tôn giáo khác để giúp họ đối thoại tốt hơn, trong hành trình tìm kiếm chủ nghĩa phổ quát mà minh chứng đẹp nhất là những ô cửa kính màu. Ở Metz cũng như ở Reims, ông đã thể hiện là một trong những nhà cải cách vĩ đại nhất của thế kỷ 20.

(dịch từ Beaux-Art Magazine số 447)

https://www.beauxarts.com/grand-format/ce-que-vous-ne-saviez-peut-etre-pas-sur-marc-chagall/?fbclid=IwAR1qRdHh_fwGXuvV_Q_E7gKlVfySYBTivibJAsBXF2cFjQcayW93Z1djasI

ĐÊM ĐẦY SAO…

“Con hãy nhìn xem, có cả một thế giới khác đang ở trên kia, những thứ chúng ta có thể nhìn thấy nhưng không hiểu được! « – người đưa thư nói với con trai ở cuối phim Loving Vincent.
Trời cho Vangogh tài năng tuyệt vời, và Trời cũng lấy đi không ít thứ của ông, đinh ninh rằng những thứ đó sẽ giúp ngưòi đời bớt ghanh ghét ông hơn ?
Ở đời, làm người đã khó, đã khổ. Làm họa sĩ còn khó hơn, khổ hơn.
Trời cho tài năng, cho cảm xúc thì mấy ai hiểu lúc đương thời ? còn bị coi như những kẻ điên, những kẻ có vấn đề tâm thần hoặc bị ghanh ghét, đố kỵ … Chết rồi người ta mới ca ngợi, tranh bán hàng triệu đô thì người khác hưởng ! Lúc sống thì cô đơn kinh luôn. Giờ mình hiểu sao bố mình đã không ủng hộ mình trở thành họa sĩ 🙂
Câu chuyện của Vangogh khiến mình nhớ tới vị vua trẻ ở lâu đài Neuschwanstein. Đó là một lâu đài nguy nga sừng sững trên núi vùng Bavaria. Vị vua chết trẻ khi lâu đài chưa hoàn thành. Thời đó sử sách nói vị vua bị điên, bị tâm thần, đã nhảy hồ tự tử … Ngày nay thì người ta nhìn nhận khách quan hơn rằng vị vua trẻ có thể bị trầm cảm do áp lực về quyền lực và các xung đột tư tưởng… Mình có nói chuyện với một số người Đức về vấn đề này thì họ bảo thời đó người ta còn chưa biết đến bệnh trầm cảm, nên tất cả bị dồn vào một thứ : bị điên !
Đây cũng từng là bi kịch của nhiều tài năng trong lịch sử: của Camille Claudel (người tình Rodin), của Théo em trai Vangogh, của Gauguin, của Goya, của Munch … vv…

Cái chết của Vincent đến giờ vẫn là câu hỏi to tướng : nếu Vangogh tự tử thì khẩu súng sao không tìm thấy ??? những con quạ đen trong bức tranh cuối cùng của Vangogh đã có thể nhìn thấy điều gì đó, nhưng chúng đã không thể nói !!! Cơm áo không đùa với khách thơ, và trái tim mẫn cảm của một nghệ sĩ cũng khó sống được với những trò đùa ác, sự ngu dốt của con người …
« Những ánh sao kia luôn làm anh mơ ước « – Vangogh viết trong lá thư cuối cùng gửi em trai Théo. « Có thể chúng ta chết để vươn tới một vì sao ở đó « .
Nỗi buồn là mãi mãi ! – Vincent nói lời cuối cùng trước khi nhắm mắt trong căn phòng màu xanh ở Arles, miền nam nước Pháp khi mới 37 tuổi.
Bộ phim Loving Vincent (bản tiếng Việt dịch là Vincent thuơng mến) được vẽ tay bởi nhóm hơn 100 họa sĩ Balan, theo phong cách của Vangogh. Kể câu chuyện bằng ngôn ngữ của Vangogh, như một lời tri ân ♥ ♥ ♥ (5/5/2018)

Đêm đầy sao trên sông Rhone – Vincent Vangogh (1888)

FRIDA – DIEGO, những ngừoi tình của hội họa

Vừa hút vừa đẩy, Frida và Diego là một cặp bí ẩn trong giới nghệ thuật.
Mối tình của Diego và Frida ở Mexico có vẻ giống như đất, như nhịp điệu 4 mùa, như những trái gió của thời tiết và văn hóa” – nhà văn J.M.G.Le Clézio từng viết. Frida Kahlo (1907-1954), nữ họa sĩ nổi tiếng với những bức tự họa không khoan nhượng, sau khi mất đã trở thành một biểu tượng (như Đức Mẹ Đồng Trinh của Guadalupe). Còn Diego Rivera , niềm tự hào của dân tộc về mảng tranh tường và tranh cổ động, sinh năm 1921 vào ngày hôm sau của cuộc cách mạng Mexico. Cả hai tạo thành một cặp bí ẩn mà lịch sử nghệ thuật phát sốt.
Chính ở Mexico, họ đã yêu nhau, căm thù nhau, lừa dối, cắt đứt, xa rời, và rồi lại tìm thấy nhau.
Đất nước 22 triệu dân này ngày nay vẫn lưu giữ những kỷ niệm về chuyện tình xôn xao của cặp đôi nghệ sĩ đặc biệt này.
La Casa Azul: căn nhà thời thơ ấu của Frida sau này Diego làm thành bảo tàng.

Trong khu dân cư cổ kính Coyoacan, phía Nam Mexico, cách đây hơn thế kỷ, cuộc sống rất ổn. Bố của Frida- một nhiếp ảnh gia người Đức, tới Mexico và dựng căn nhà nhỏ trong một khu vườn đầy hoa giấy, hoa cam và hoa xương rồng. Một thiên đường bình yên bên trong những bức tường xanh da trời, nơi đây Frida đã sinh ra, và chết.
Ban đầu cô sống một mình, sau sống với Diego, cũng là nơi đón tiếp gia đình, bạn bè , các nghệ sĩ, nhà thơ… Sau khi vợ mất, Diego đã biến căn nhà thành bảo tàng, nhưng vẫn giữ được hồn cốt của một ngôi nhà mà không bị biến thành kiểu như lăng mộ. Những kỷ niệm, từng vật nhỏ minh chứng sự hiện diện của Frida : những lá phiếu cũ kỹ, những tượng nhỏ thời kỳ tiền Colombia, ảnh, búp bê, ký họa và tranh…Không có những tác phẩm khủng ở đây, nhưng những hình ảnh nói lên tất cả . Như là bức tĩnh vật về dưa hấu, bức tranh cuối cùng của cô, khi tình trạng sức khỏe đã trở nên rất tệ. Tác phẩm của Frida kết nối với cuộc sống của cô một cách kín đáo. Một cuộc sống khó khăn nhưng không tăm tối: mẹ cô bị trầm cảm và đã phó thác cô cho một bà vú ngiện ngập, nên tới 7 tuổi cô mắc bệnh bại liệt, nguyên nhân gây ra tai nạn năm 18 tuổi khiến cô bị thủng bụng và không bao giờ có con được nữa. Phải nằm liệt giường, cô bắt đầu vẽ bằng một hệ thống gương chiếu và chiếc giá vẽ gắn vào giường, cô bắt đầu những bức chân dung tự họa đầu tiên. Tổng số cô đã vẽ khỏang 50 bức.
Những con thú bị thương, người phụ nữ trong trang phục Ấn độ, da bị cắt đôi : mỗi một hình ảnh của cô gợi tới những nỗi đau vừa từ thể xác , vừa từ cả Diego, người tình ma mị. Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại của Mexico dựng hình tượng cô vừa như một người vợ bị phản bội, vừa là một phụ nữ độc lập và quyết đóan. “Trong đời, tôi từng là nạn nhân của 2 tai nạn nghiêm trọng. Một cái là do xe búyt đâm tôi ngã. Cái kia là do Diego”- cô viết trong nhật ký của mình.

Vì lý do thể chất, Frida chỉ vẽ tranh khổ nhỏ, trái ngược với Diego thường thực hiện những tranh lớn trên nhiều bức tường ở Mexico. Năm 1921, sau 10 năm nội chiến , bộ trưởng Bộ Giáo dục đã quyết định dành những không gian công cộng cho các nghệ sĩ thể hiện sự ca ngợi với cuộc cách mạng. Diego Rivera nhanh chóng tiên phong trong công việc này. Ông bắt đầu làm việc tại San Ildefonso, trường nổi tiếng của các trí thức ở Mexico. Trong số đó, có một phụ nữ trẻ tên là Frida Kahlo, thành viên của nhóm Cachuchas, nhóm này không ngại vác cả bức tượng khổng lồ vào giảng đường lớn của học viện. Diego khi đó đang làm việc trên dự án câu chuyện ngụ ngôn về bản sắc Mexico và đạo đức cách mạng. Tác phẩm này của Diego tới nay vẫn còn ở đó. Đó là nơi mà Frida và Diego gặp nhau lần đầu tiên, mặc dù cuộc gặp gỡ định mệnh mấy năm sau mới thực sự diễn ra tại nhà của nhiếp ảnh gia Tina Modotti. Sau đó, hai người cưới nhau tháng 8 năm 1929, đám cưới giữa “một con voi và một con chim cu đất”, như cách tả của mẹ Frida. Bà luôn lo sợ về người đàn ông hơn con gái mình “20 năm, 20 kg và 20 cm” này.
Người ta vẫn rỉ tai nhau về câu chuyện của cặp đôi đặc biệt này, về những vụng trộm của Diego, những cuộc phiêu lưu đồng tính của Frida. Trong khi cả hai nghệ sĩ lại luôn ngưỡng mộ nhau. Ngay từ đầu, Diego đã khuyến khích Frida vẽ. Thú vẽ được nuôi dưỡng bởi Diego, cô thường kể về chồng mình như về một người tình, một người bạn, người cha, con trai , vị hôn phu, vũ trụ của cô…, trong khi Diego , ngược lại, chả bao giờ có cảm hứng đưa cô vào những tác phẩm của mình.

Chân dung tự họa đeo vòng cổ và một chú khỉ, vẽ năm 1938, sơn dầu trên vật liệu masonite, 40 x 30.5 cm. Ở đây, Frida được thể hiện có vẻ thản nhiên và quyết đóan giữa một thiên nhiên rất Mexico. Đôi lông mày giao nhau của cô giống như một cánh chim, thể hiện sự tự do. Chiếc vòng cổ biểu tượng cho sự gắn bó với đất nước và Diego.

Ở Mexico, người ta vẫn còn do dự về thành công của Frida trên trường quốc tế . Nhiều người chỉ xem cô như vợ của Diego. “Đối với Frida, Diego là nguồn sống của cô. Còn đối với Diego, vẽ mới là cuộc sống của ông” – Adriana Garcia của Bảo tàng Dolores Olmedo tóm tắt. Bảo tàng này mang tên của nguời bảo trợ chính cho Diego, một phụ nữ quan hệ khá rộng. Di sản khổng lồ của bà giờ được bày cho công chúng chiêm nguỡng, gồm phần lớn các bức họa của Diego (gần 150 bức), nhưng cũng có cả những sưu tập các bức vẽ quan trọng nhất của Frida (26 bức) sau khi cô mất. Những bức tranh tường cuối cùng của Diego được để trong một ngôi nhà khác của Dolores ở Acapulco, nơi cũng được chuyển thành bảo tàng, và mới mở cửa cho công chúng từ cuối năm 2014. Ở Mexico, nơi người ta dễ bị lạc, tất cả các con đường đều dẫn tới Diego . Tại Cung điện quốc gia, ông đã thực hiện một tác phẩm khổng lồ trải dài tòan bộ lịch sử Mexico, từ thời tiền sử cho tới cách mạng 1910, dĩ nhiên là không quên cuộc chinh chiến xương máu với Tây Ban Nha và cuộc chiến độc lập kéo từ 1810 đến 1821. Cách đó cũng không xa, tại Viện Mỹ Thuật, mọi người cũng có cơ hội xem thêm các bức tranh tường khác của Diego. Một cách khoa giáo, như thường thấy, họa sĩ tố cáo các tệ nạn của chủ nghĩa tư bản, đối lập với sự bao dung của thế giới xã hội chủ nghĩa, bằng một bức chân dung Lê nin khá ấn tượng. Sau một cuộc tranh cãi, bức tranh cuối cùng đã bị hủy.
Trong khi đó, tại bảo tàng tranh tường Diego Rivera, trưng bày bức tranh Giấc mơ một chiều chủ nhật trong công viên Alameda, một bức tranh sử sống sót sau vụ động đất năm 1985. Ngoài ra còn nhiều nơi khác khá bất ngờ ở Mexico cũng hiện diện những tác phẩm của Diego, như chợ Abelardo Rodriguez, nơi Diego đã vẽ năm 1934 một bộ 10 tranh tường về chủ đề bản sắc Mexico.
Một địa chỉ không thể không nhắc tới khi nói về cặp đôi Frida-Diego chính là ngôi nhà chung của hai nghệ sĩ ở khu San Angel, được xây dựng bởi kiến trúc sư Juan O’Gorman, đệ tử của Le Corbussier, theo yêu cầu của Rivera. Diego và Frida dọn đến ở sau khi từ Mỹ về năm 1933. Ngôi nhà được hợp thành từ 2 khối màu sắc được nối bởi một cái cầu. Một khu màu đỏ rộng rãi sáng sủa làm xưởng vẽ cho ông. Một khu màu xanh dương nhỏ hẹp dành cho Frida. Thiết kế theo châm ngôn của chủ nghĩa chức năng, hơi đối chọi với sự ấm áp của vùng Casa Azul. Frida cũng không ở đó lâu, vì Diego đã dan díu với chính người em gái của cô tại đó. Cô bỏ đi. Rồi họ lại hòa giải, rồi lại chia tay.. Họ ly dị năm 1939 rồi cưới lại vào cuối năm 1940. Sau đó, như Hayden Herrera nhấn mạnh trong cuốn tiểu sử về Frida :”Hai huyền thọai nhập làm một”.
Dự án chung cuối cùng của cặp đôi khổng lồ này là một bảo tàng mà Diego muốn tạo dựng để bày bộ sưu tập nghệ thuật tiền sử của ông gồm gần 60.000 mẫu vật. Được Frida ủng hộ, Diego cho dựng một tòa kiến trúc khổng lồ 3 tầng, thể hiện thế giới của người chết, người sống và thế giới của thần linh. Đầu tiên chìm trong bóng tối, khách tham quan sẽ dần di chuyển tới khu vực có ánh sáng. Được xây bằng đá núi lửa, ngôi đền giống như một lăng mộ linh thiêng, có vẻ như làm tròn mơ ước lớn lao của Diego. Các tác phẩm được bày trong không gian rất huyền bí.
Sau khi cả hai mất, bảo tàng Anahuacalli tận năm 1964 mới được khánh thành. Diego muốn tro cốt của cả hai được để ở đó vĩnh viễn. Nhưng điều này đã không được thực hiện: tro của ông được đưa về Pantheon de Dolores, trong khu của những người nổi tiếng ở nghĩa trang lớn nhất Mexico. Còn tro của Frida thì đựoc chôn ở Casa Azul, ngay dưới chân giường cô, khá xa người đàn ông mà cô đã từng yêu điên dại.

(tổng hợp từ tạp chí Mỹ thuật Pháp) 12/5/2016

Unique
Mensuellement
Annuellement

Make a one-time donation

Make a monthly donation

Make a yearly donation

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

€5,00
€15,00
€50,00
€5,00
€15,00
€100,00
€5,00
€15,00
€100,00

Hoặc tự điền số tiền bạn muốn ủng hộ:


Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

Your contribution is appreciated.

DonateDonate monthlyDonate yearly

OLGA PICASSO

Bí ẩn và trịnh trọng, luôn được giới thiệu như một nữ quí tộc cao cấp, người hướng Picasso tới tính hiện đại, Olga Khokhlova là chủ đề của một cuộc triển lãm đặc biệt từ 23 đến 3/9/2017 tại bảo tàng Picasso (Paris). Nữ diễn viên ballet Nga, người vợ đầu tiên của Picasso, hiện ra trong một ngày mới, qua những tài liệu do Joachim Pissarro, đồng tổ chức triển lãm, giới thiệu .

– Thưa ông, triển lãm này hình thành như thế nào ?

Nhờ có bạn tôi là Bernard Ruiz-Picasso, cháu trai của họa sĩ, người cũng là đồng tổ chức cuộc triển lãm này. Anh được thừa kế một vali đầy thư từ tài liệu bản thảo.. từ bà nội, mà anh thậm chí còn không đựoc gặp, vì bà mất năm 1955, và năm 1959 thì anh mới ra đời. Một hôm Bernard nhờ tôi xem xét các tài liệu này. Tôi hơi bị sốc trước đống tài liệu nhói tim này. Đó là những thư từ Olga nhận được từ gia đình, từ một số cựu quan chức cao cấp sa hòang ở Nga sau cuộc cách mạng. Cô đã không bao giờ gặp lại họ nữa. Họ đã kể về những đau đớn, về những ức chế mà họ phải trải qua . Bố cô mất tích năm 1921, có lẽ chết vì đợt sốt rét lúc đó.

– Ông đã phản ứng thế nào ?

Tôi vừa bị ngộp vừa có cảm giác say mê. Đối với một nhà sử học, thật là khủng khi bỗng tìm thấy nguồn tư liệu về một nhân vật quan trọng như vậy trong đời Picasso. Vào một ngày hòan tòan mới, cô hiện ra khác hẳn người phụ nữ xa cách và lập dị mà người ta vẫn mô tả. Thế hệ các chuyên gia đầu tiên về Picasso, vào thập niên 50, biết đến Olga vào lúc cô ấy gần như phát điên. Cô thậm chí phải vào điều dưỡng tại một viện về tâm thần. Lúc đó, người ta đã tập trung vào những câu chuyện về sự lập dị của cô, về tính cách sở hữu …v v.. Vâng, cô lúc đó có ghen tuông, nhưng ai mà không bị như vậy với một người chồng như Picasso ? Ngay năm 1927 ông đã đi lại với Marie-Therese Walter . Ngừoi ta cũng rỉ tai nhau về một Picasso quí tộc hóa với Olga, trở về với chủ nghĩa cổ điển trong tranh, với một sự ám ảnh về một khuôn mẫu trừu tượng và được lý tưởng hóa. Hòan tòan không phải vậy. Nguời mẫu của ông, trong con mắt ông, bằng da bằng thịt, tên là Olga. Ông đã thể hiện cô không biết bao nhiêu lần. Một cuộc đối thọai sâu sắc và mãnh liệt giữa họa sĩ và người vợ – người mẫu, nàng thơ của ông . Mối quan hệ của họ đã rất say sưa . Trong đống tài liệu, thậm chí có cả một « lời thề tình yêu » mà họ đã viết vào năm cưới nhau: »Chúng tôi, ký tên dưới đây, Olga Koklova và Pablo Picasso sẽ cùng nhau sống hòa hợp và yêu thương cho tới tận lúc chết . Ai phá vỡ cam kết này sẽ bị tội chết. »

-Vậy là cuộc triển lãm này mang tính phục hồi lại ..

Tôi thích dùng từ « chỉnh sửa » hơn. Tôi đã thử nghiệm với John Richardson, một trong những chuyên gia về Picasso khá có tiếng. Ông ấy đã nhận ra rằng cái chân dung mà ông miêu tả Olga trong cái tiểu sử hòanh tráng kia chỉ là một phần và hơi cảm tính. Ông thậm chí còn thú nhận đã không dám nói chuyện với cô khi chạm mặt cô lần duy nhất ở khách sạn phố Beaux-Arts. Thật lạ, chuyện về Olga được dựng lên mà không có cô ở đó.

– Vậy ông sẽ miêu tả về cô ấy như thế nào, với sự soi sáng của các tài liệu mới này ?

Đó là một người đàn bà nhiều đau buồn . Hãy nhìn tất cả những bức tranh mà trong đó cô đang đọc sách. Trong suốt nhiều thập niên, người ta cứ nghĩ cô đọc Dostoievski. Thực ra, cô đang đọc đi đọc lại những tin tức từ quê hương , những tin tức khiến cô nát lòng. Mẹ cô, bà Lydia, là nhân vật trung tâm của bi kịch. Bà không hợp lắm với cô con gái thứ hai, Nina, nên dồn hết tình yêu thương cho Olga mà bà đã không gặp từ năm 1915. Hoàn cảnh của họ ở Mouscou lúc đó thật bi đát. Họ sống chật chội trong một studio của phường, không có lò sưởi và thường phải đối phó với lũ rệp . Bà mẹ đã hy vọng Olga sẽ đến đón bà.

– Và điều đó đã không được thực hiện ?

Đó có lẽ là sự tổn thương thầm kín nhất của Olga. Thời đó, Picasso đã rất giàu và ông cũng tỏ ra khá hào phóng bằng cách gửi tiền giúp. Mẹ của Picasso thậm chí còn liên lạc với bà Lydia. Khi đọc những thư từ này, tôi bỗng hiểu ra rằng Picasso, một họa sĩ với cái tôi hơi quá, không muốn mẹ vợ mình gia nhập vào cái nôi sáng tạo mà ông đã tạo dựng với Olga và con trai Paul. « Cuối cùng, mẹ đã hiểu rằng chồng con không thực sự muốn gặp mẹ » – bà Lydia viết trong một lá thư. Đối với Olga, đó hẳn là một cơn ác mộng khủng khiếp.
Tôi rất muốn có bằng chứng về sự im lặng của cô về cuộc sống với Picasso . Chúng tôi hiện không có những văn bản viết, tôi vẫn hy vọng một ngày nào đó tìm thấy nó ở Nga, nhưng bà Lydia thường xuyên hỏi chi tiết về cuộc sống của họ, và Olga đã không cho bà biết. Một chi tiết đau lòng khác: vào ngày cưới, cô bị thương ở chân và buộc phải bỏ khiêu vũ, một điều khá kiêng kị. Sau này là sự đau đớn nữa khi con trai Paul ở với bố sau khi họ chia tay. Bernard Picasso đã nói với tôi rằng bố anh không bao giờ nói về mẹ anh .

– Ông cũng là hậu duệ nhà Pissarro, cũng nổi tiếng lúc này với hai triển lãm ở Paris. Điều đó có một vai trò nào đó trong thiên hướng của anh ?

Có lẽ vậy, dù tôi học triết học ra. Lúc đầu, tôi lao vào học triết học Đức, Kant và Fichte, nhưng rồi môn lịch sử nghệ thuật đã kéo tôi đi . Lúc đó tôi chả biết gì về truờng phái ấn tượng. Tôi chỉ thích trường phái tối giản và các nghệ sĩ như Carl Andre. Rồi khi tìm hiểu về các đền thờ của Monet và khía cạnh seriel của họ, tôi đã gặp gỡ Daniel Wildeinstein, người hỏi tôi rằng : Vì sao anh không nghiên cứu Pissarro ? Hai tuần sau, anh gửi vé máy bay để tôi tới học với chuyên gia lớn nhất về ông nội tôi. Điều khôi hài là ông có một ngôi nhà ở Eragny-sur-Epte , không xa Boisgeloup, lâu đài mà Picasso mua năm 1930. Một hôm, đi thăm Bernard ở Boisgeloup , tôi bỗng sững lại trước tháp nhỏ của một nhà nguyện cũ. Từ lâu tôi vẫn giữ một bức màu nứơc của ông nội tôi. Quan hệ hàng xóm giữa Picasso và Pissarro ít được biết đến, nhưng tôi tin có những ảnh hưởng qua lại nào đó.

Olga trong nhiều tranh của Picasso được thể hiện thường là buồn, đôi khi đang đọc hoặc vẽ viết gì đó..

( Point de Vue, số 3584, tháng 4/2017)